ĐNĐT ngày 02 tháng 11 năm 2008, đăng bài “Tham vọng và hiện thực” của tác giả Nguyễn Vi Tính. Sau khi đăng tải, chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến khác nhau về nội dung bài báo. Chúng tôi cũng nhận được Công văn phản hồi số 629/STTT-BCXB của Sở Thông tin và truyền thông (TT&TT) do Phó giám đốc Sở Nguyễn Đăng Trường ký, đề nghị cải chính về nội dung bài viết. Để rộng đường dư luận, ĐNĐT xin tóm lược những nội dung chính của công văn trên.
Thứ nhất, theo tác giả bài viết, sau 5 năm - kể từ ngày Trung tâm Công nghệ phần mềm Đà Nẵng (Softech) được thành lập 08-11-2000 - cho đến khi chuyển sang cổ phần hóa, kết quả hoạt động Softech “hết sức khiêm tốn”, “hiệu quả kinh doanh hầu như không có”. Sở TT&TT khẳng định:
Đến cuối năm 2005, Softech đã có 12 loại hình đào tạo được triển khai do chính Softech chủ trì hoặc liên kết, phối hợp với các đối tác trong và ngoài nước (như Aptech, Ấn Độ; Đại học Bách khoa TP.HCM; AOTS, Nhật Bản). Ngoài ra, Softech còn tham gia đào tạo theo Chương trình Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước thành phố Đà Nẵng và Chính phủ. Tính đến 12/2007, Softech đã đào tạo được gần 3451 học viên, trong đó có gần 2000 học viên đã tốt nghiệp; đào tạo tin học cho 1612 cán bộ, công chức thuộc các sở, ban ngành thành phố.
Thành công lớn nhất của Softech trong sản xuất phần mềm những năm qua là đã chào bán ra thị trường các sản phẩm phần mềm đóng gói được khách hàng chấp nhận và đặc biệt là thực hiện được nhiều dự án sản xuất có tầm cỡ quốc gia và có giá trị lớn. Softech đã nhận được tài trợ từ nhiều chương trình hợp tác, tài trợ từ phía Ấn Độ, Nhật Bản; nâng cao năng lực đào tạo nhân lực CNTT và từng bước xác lập uy tín trong quan hệ quốc tế.
Nhân lực của Softech lúc khởi đầu hoạt động vào tháng 3/2001 chỉ có 28 người, đến 12/2006 đã có 252 người. Từ năm 2002-2006, Softech đã tự trang trải các chi phí hoạt động gần 35,5 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng doanh số trung bình đạt 50%/năm, từ năm 2002 đến 2006 lần lượt đạt 3 tỷ đồng, 6,9 tỷ đồng, 10,2 tỷ đồng, 17 tỷ đồng và 20,5 tỷ đồng. Softech là Trung tâm Công nghệ phần mềm duy nhất trong cả nước không nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Thứ hai, tác giả bài viết cho rằng thành phố Đà Nẵng đã đầu tư một khu công viên phần mềm và đi vào hoạt động, thế nhưng hiệu quả sử dụng đến đâu vẫn còn bỏ ngỏ. Về vấn đề này, Sở TT & TT xin nói rõ: Khu Công viên phần mềm Đà Nẵng cho đến nay vẫn đang trong giai đoạn tích cực hoàn công, chưa bàn giao chính thức cho Chủ đầu tư và do vậy, sẽ đi vào hoạt động chính thức vào đầu tháng 12 tới.
Thứ ba, tác giả bài viết cho rằng phải thành lập một đơn vị quản lý hạ tầng sẽ khiến bộ máy ngày càng phình, ngân sách nhà nước tốn không ít để duy trì. Sở TT&TT khẳng định:
Trung tâm Phát triển Hạ tầng CNTT Đà Nẵng, trực thuộc Sở TT&TT thành phố Đà Nẵng (Sở Bưu chính, Viễn thông trước đây), được thành lập theo Quyết định số 9885/QĐ-UBND ngày 13/12/2007 của UBND thành phố Đà Nẵng với chức năng, nhiệm vụ chính là tổ chức quản lý khai thác có hiệu quả những tòa nhà, cơ sở hạ tầng CNTT được thành phố giao nhằm phục vụ cho phát triển Công nghiệp phần mềm. Sự ra đời của Trung tâm này ngay sau khi Softech được cổ phần hóa là rất cần thiết để tiếp nhận, quản lý và khai thác cơ sở hạ tầng CNTT và TT thuộc Softech trước đây chưa được cổ phần hóa, bao gồm các tòa nhà 15 Quang Trung và 02 Quang Trung, đồng thời tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp CNTT đầu tư vào Khu Công viên phần mềm, trong khi chờ UBND Thành phố phê duyệt phương án xã hội hóa các cơ sở này.
Thứ tư, tác giả bài viết cho rằng “ chính sách hỗ trợ doanh nghiệp CNTT thời gian qua còn khá mờ nhạt;...công tác quản lý Nhà nước về CNTT chưa hỗ trợ doanh nghiệp, thậm chí còn làm mất thời gian, gây khó khăn cho doanh nghiệp...”, chúng tôi xin cung cấp thêm thông tin như sau:
Sở TT&TT đã tích cực tham mưu cho UBND Thành phố xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển và ứng dụng CNTT ngắn hạn cũng như dài hạn. Trong đó có Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và phát triển; Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp phần mềm nâng cao năng lực cạnh tranh, v.v...Doanh thu CNTT từ 2006 đến 2008 lần lượt là 399,738 tỷ đồng; 770,292 tỷ đồng và 962, 875 tỷ đồng (ước); tăng trưởng bình quân khoảng 40%; trong đó xuất khẩu phần mềm tương ứng từ 2006 đến 2008 là 2,486 triệu USD; 4,908 triệu USD và 6,5 triệu USD (ước), tăng trưởng bình quân là 65%.
Trong quá trình thực hiện Quyết định số 1141/QĐ-BBCVT ngày 15/12/2006 của Bộ TT và TT về việc Ban hành tạm thời chế độ báo cáo nghiệp vụ đối với doanh nghiệp BCVT và CNTT, Sở chưa hề gây ra bất kỳ khó khăn nào cho doanh nghiệp. Kết quả khảo sát mức độ hài lòng của tổ chức, công dân trong tháng 10/2008 vừa qua, cho thấy có đến 91,7% tổ chức cá nhân hài lòng và rất hài lòng về các dịch vụ hành chính của Sở.
Thứ năm, tác giả bài báo cho rằng “Riêng đề án 191 của VCCI phối hợp với sở TT& TT (về Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010) theo đánh giá của doanh nghiệp, hiệu quả không cao, thậm chí nhiều khi mang tính chất giải ngân”. Sở TT&TT xin nói rõ:
Đề án này do VCCI chủ trì thực hiện, Sở là cơ quan phối hợp. Trong gần 3 năm qua, đã có hàng trăm doanh nghiệp (với hơn 975 lượt người) trên địa bàn Thành phố hưởng lợi từ Đề án này. Kinh phí đối ứng của UBND Thành phố cho Đề án từ 2006 đến 2008 tương ứng là 168 triệu đồng; 100 triệu và 246 triệu đồng và được quản lý chặt chẽ. Qua tổng kết hoạt động Đề án hàng năm, Sở luôn luôn được VCCI nhận xét tốt.
Thứ sáu, tác giả bài viết cho rằng công tác quản lý chất lượng thiết bị CNTT, bảo vệ người tiêu dùng trước tệ nạn hàng giả, hàng nhái, kém chất lượng hoàn toàn bị bỏ ngỏ. Sở TT&TT khẳng định:
Chức năng quản lý chất lượng thiết bị CNTT thuộc nhiệm vụ của Cục Quản lý chất lượng Công nghệ thông tin và Truyền thông (Bộ TT & TT). Sở chỉ có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chứng nhận chất lượng các sản phẩm của doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố, thuộc danh mục sản phẩm yêu cầu quản lý chất lượng do Bộ TT & TT công bố. Việc quản lý kinh doanh hàng nhái, hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc do Sở Công Thương thực hiện theo qui định của pháp luật.
Thứ bảy, bài viết cho rằng “Kinh nghiệm của Đà Nẵng cũng là bài học cho nhiều tỉnh, thành khác từng tốn bạc tỷ trong cuộc chạy đua theo “hội chứng” Trung tâm công nghệ phần mềm chủ yếu để lấy thành tích…”. Sở TT&TT khẳng định:
Thành phố Đà Nẵng đã xác định vị trí ưu tiên cho ngành CNTT–TT trong số các ngành công nghiệp quan trọng của Đà Nẵng. Trước năm 2002, Đà Nẵng, chưa có một doanh nghiệp phần mềm nào có đến 50 người, thì nay đã có 3 doanh nghiệp có từ 200 đến 350 người; 45 doanh nghiệp có từ 30 đến 100 người; tính đến cuối năm 2007 có khoảng hơn 1200 người làm việc trong các công ty phần mềm mới thành lập trong 5 năm gần đây trên địa bàn. Lần đầu tiên, năm 2006, Đà Nẵng đã xuất khẩu phần mềm gần 2,5 triệu USD; tiếp theo đó, năm 2007 và 2008 lần lượt là trên 4,9 triệu USD và 6,5 triệu USD (ước) tốc độ tăng trưởng xuất khẩu phần mềm lần lượt là 97,4% và 32,%. Với kết quả ban đầu này, có thể khẳng định rằng, Đà Nẵng là một trong số rất ít địa phương đã xây dựng được nền công nghiệp phần mềm, tuy còn non trẻ.