.

Tính ưu việt của phần mềm quản lý thư viện trường học

.

Với tấm lòng yêu nghề và sự sáng tạo, anh Lý Xuân Hoàn, công tác ở Nhà Xuất bản Giáo dục tại Đà Nẵng đã nghiên cứu thành công phần mềm quản lý thư viện trường học. Sáng tạo của anh đã nhận được sự quan tâm của hàng trăm trường học trong cả nước và anh được nhận Bằng khen “Sáng tạo trẻ” của Thành Đoàn Đà Nẵng và Huy hiệu “Tuổi trẻ sáng tạo” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Anh Lý Xuân Hoàn (phải) nhận Huy hiệu “Tuổi trẻ sáng tạo” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Ngày nay, khi công nghệ thông tin (CNTT) càng phát triển thì việc ứng dụng CNTT vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, giảng dạy. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong trường học ở nước ta còn hạn chế. Thư viện trường học (TVTH) xem ra lạc hậu vì chưa được trang bị nhiều máy vi tính và các loại thiết bị liên quan.

Trình độ vi tính của giáo viên, cán bộ TVTH cũng còn hạn chế. Với các TVTH, nếu CNTT được áp dụng càng sớm bao nhiêu thì hiệu quả giảng dạy và học tập được nâng lên bấy nhiêu. Vì đây chính là cơ sở vật chất trọng yếu phục vụ giảng dạy và học tập, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.

Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, anh Hoàn đã dồn tâm sức nghiên cứu phần mềm quản lý thư viện. Bởi theo anh, đây là giải pháp tối ưu để tiết kiệm thời gian, công sức, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý TVTH. Để hoàn thành được phần mềm này, anh phải đối mặt với bao khó khăn, vì phải cập nhật thường xuyên thông tin từ hàng trăm TVTH trên cả nước. Phần mềm được chia thành nhiều mục, trong đó đáng chú ý là mục quản lý kho tài liệu, hồ sơ thẻ thư viện, với yêu cầu tất cả các dữ liệu phải được cài đặt trước. Khi tìm hiểu một tư liệu nào đó, chỉ cần gõ những thông số chung nhất, lập tức phần mềm sẽ cho kết quả tài liệu đó đang ở đâu.

Tính ưu việt của phần mềm này là không chỉ rút ngắn thời gian mà còn cho phép rút ngắn không gian qua dữ liệu được tải lên mạng Internet. Chẳng hạn học sinh có thể ngồi bất cứ ở đâu có Internet cũng đều tìm hiểu được dữ liệu trong kho tư liệu của trường mình. Trong phần mềm, hệ thống dữ liệu cũng được chia ra từng loại rất đơn giản, dễ sử dụng, tuân theo các quy trình nghiệp vụ, các chuẩn của thư viện trường học, từ khâu biên mục, bổ sung đăng ký, thanh lý cho đến việc quản lý tình hình lưu thông tài liệu. Bên cạnh đó, phần mềm còn có bổ sung một số tính năng mở rộng, tạo được sự liên kết giữa các thư viện, tức là khả năng chia sẻ dữ liệu , giúp cán bộ thư viện có thể học hỏi, trao đổi nghiệp vụ chuyên môn với nhau…

Ngay sau khi phần mềm này hoàn thành, Nhà Xuất bản Giáo dục tại Đà Nẵng đã tổ chức lớp tập huấn sử dụng phần mềm cho 30 học viên là các giáo viên và cán bộ phụ trách thư viện trong 9 tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Riêng Sở GD-ĐT thành phố Đà Nẵng tập huấn và cài đặt phần mềm quản lý thư viện trường học cho tất cả các trường trên địa bàn thành phố và tiến tới sử dụng phần mềm rộng rãi trong thời gian tới. Cho đến nay, phần mềm Quản lý Thư viện trường học của Nhà Xuất bản Giáo dục tại Đà Nẵng đã có hơn 300 đơn vị ứng dụng thực tế.

Theo anh Hoàn, đây là phần mềm rất phù hợp với hệ thống thư viện của các trường phổ thông hiện nay. Tất cả các trường sử dụng phần mềm đều phát huy hiệu quả và đánh giá cao tính ưu việt của chương trình.

Bài và ảnh: NGỌC HÂN

;
.
.
.
.
.