Cho đến nay, dù thỉnh thoảng đây đó xảy ra những vụ ngộ độc thịt cóc với những cái chết rất thương tâm cho trẻ nhỏ, vẫn còn có một số vị phụ huynh vì quá tin tưởng, đến độ “mê tín” vào khả năng chữa bệnh suy dinh dưỡng, cam tích, còi cọc của thịt cóc nên tự chế biến hoặc mua thịt cóc, thậm chí còn cải biên thịt cóc thành “ruốc”, “dăm bông” để cho con trẻ ăn như thịt, cá… thông thường.
Vô tư tiếp thị “Cóc vàng” trên đường phố. |
Theo GS Đỗ Tất Lợi trong “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, cách chế biến thịt cóc như sau: Chọn những con cóc to, cóc da đen hay da vàng đều dùng được, tránh dùng cóc mắt đỏ. Dùng dao thật sắc chặt bỏ phần đầu ngang phía dưới hai u to vất đi. Khía dọc xương sống lột sạch da, móc bỏ hết ruột, gan, phổi và trứng cóc vì đây là những nơi chứa độc tố cóc. Trong khi chế biến, tuyệt đối không để nhựa cóc ở các khối sần da và tuyến sau tai dính lẫn vào phần thịt. Thịt cóc sau đó có thể rang khô, sấy khô cho dòn và tán thành bột, bảo quản tránh ẩm mốc, để dùng dần. Ở Trung Quốc, người ta sấy khô nguyên con gọi là “can thiềm”.
Trước đây, Đông y có dùng nhựa cóc để chữa một số bệnh hiểm nghèo. Nhựa cóc (thiềm tô), là một trong sáu vị đơn thuốc “lục thần hoàn”. Theo tài liệu cổ, nhựa cóc có vị ngọt, cay, tính ôn, có độc vào kinh vị. Nhựa cóc có tác dụng giải độc, tán thủng và giảm đau. Vì rất độc nên Đông y cũng lưu ý rất cẩn thận là chỉ những Lương y “thật kinh nghiệm” mới được dùng thiềm tô. Còn Tây y không có phương thuốc nào dùng cóc và nhựa cóc để làm thuốc.
Về dinh dưỡng, theo TS Nguyễn Thị Kim Liên (Viện Dinh dưỡng quốc gia), thịt cóc có hàm lượng đạm đến 22% tương đương thịt gà; các yếu tố vi lượng cũng khá cao. Theo nghiên cứu của Viện Vệ sinh Hà Nội (1962), thịt cóc có đến 53,37% chất đạm, 12,66% chất béo, rất ít chất đường, 23,56% tro và 4,18% độ ẩm.
Trong thịt cóc có một lượng đáng kể kẽm, mangan và một số yếu tố vi lượng khác. Kẽm tham gia vào cấu tạo một số enzyme (men) quan trọng trong hoạt động hô hấp và trao đổi chất của hồng cầu (vận chuyển oxy và chất dinh dưỡng đến và tạo liên kết để giải phóng các-bô-níc đi); kẽm còn tham gia thành phần enzyme chuyển hóa chất đạm và có ảnh hưởng tới hoạt động các hóc-môn tuyến yên, tuyến tụy (inuslin). Trong thịt cóc còn có chứa vitamin A và vitamin D3. Vitamin D3 giúp cho quá trình chuyển hóa canxi-phôtpho, giúp phát triển và chống còi xương, do đó thịt cóc là thức ăn tốt cho trẻ chậm lớn, trẻ suy đinh dưỡng. Như vậy thịt cóc, với điều kiện không lẫn với nhựa cóc, cũng chỉ có tác dụng như một loại thức ăn thông thường.
Hiện nay, vấn đề an toàn thực phẩm ở nước ta đang có nhiều báo động “đỏ”: Sữa pha trộn melamine; bánh phở chứa formol; giò chả pha chế hàn the; hải sản ướp phân urê; rau quả nhiễm thuốc trừ sâu và hóa chất bảo quản... Thử bình tâm nhận định một cách khoa học, chẳng lẽ chúng ta chấp nhận vì một ít giá trị dinh dưỡng nhỏ nhoi của thịt cóc mà cố tình quên mất cái nguy hiểm, cái độc hại “chết người” của độc tố cóc. Hơn nữa, trong nguồn thực phẩm phong phú hiện nay, chúng ta có nhiều thứ còn tốt hơn, an toàn hơn, thì việc gì phải chọn loại thức ăn có thể mang lại rủi ro, nguy hiểm chết người này.
Người viết bài muốn đề xuất 2 ý kiến: một là, phụ huynh nên lựa chọn một loại thực phẩm vừa bảo đảm dinh dưỡng nhưng phải vừa an toàn cho con em mình, và hai là cơ quan chức năng cần phải có biện pháp kiểm tra an toàn thực phẩm, không thể chấp nhận cho thoải mái “tiếp thị” thịt cóc quá mức, thiếu khoa học và đầy “hiểm họa” như hiện nay.
TS.BS. TRẦN BÁ THOẠI (Bệnh viện Đà Nẵng)