Trên vùng núi cao phía Bắc, đồng bào dân tộc thường dùng cây chè dây, một loại cây leo mọc hoang trong rừng làm thuốc chữa các bệnh đau bụng có triệu chứng là đau rát thượng vị, ợ hơi, ợ chua và mất ngủ.
Từ cây chè dây đến thuốc Ampelop
Chè dây tiếng Nùng gọi là Thau rả, tiếng Tày gọi là Khau rả... Theo y học cổ truyền, chè dây có vị ngọt, đắng, tính mát, được dùng chữa các bệnh liên quan tới dạ dày và còn có tác dụng an thần, chữa mất ngủ. Cách đây gần hai chục năm, chè dây đã được các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu và phát hiện ra những tác dụng tích cực trong việc điều trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng.
GS.TS Phạm Thanh Kỳ, nguyên hiệu trưởng Đại học Dược Hà Nội cho biết: “Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về cây chè dây từ năm 1990. Để xác định được tên khoa học của cây chè dây mà đồng bào vẫn dùng, chúng tôi đã phải lên tận nơi để lấy được mẫu cây có hoa, có quả, hạt và sau đó mới xác định được tên khoa học là Ampelopsis cantonesis Planch. Vitaceace”.
Sau đó, nhóm nghiên cứu đã xác định thành phần chính trong cây chè dây là flavonoid, có khả năng giảm đau, liền vết loét và có tác dụng diệt xoắn khuẩn Helicobacter pylori - xoắn khuẩn gây ra bệnh viêm loét dạ dày, hành tá tràng.
Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu và xác định cây chè dây không có độc tính và độ an toàn cao.
Theo các thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân tại Khoa tiêu hóa Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện E, Bệnh viện 108, Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương, thuốc Ampelop chiết xuất từ chè dây có tác dụng cắt cơn đau do loét hành tá tràng, làm lành các ổ loét và diệt trừ khuẩn Helicobacter pylori với tỷ lệ cao.
Một đặc tính hơn hẳn nhóm thuốc hóa dược điều trị dạ dày hành tá tràng là thành phần flavonoid trong chè dây còn có tác dụng giải độc gan theo cơ chế chống oxy hóa khử gốc tự do và an thần. Do vậy, người bệnh khi uống thuốc không gặp phải phản ứng phụ gây khó chịu hay mệt mỏi kéo dài như một số loại thuốc tân dược điều trị bệnh dạ dày khác.
Sản xuất quy mô công nghiệp
Với mong muốn đưa ra một liệu pháp hiệu quả sử dụng chè dây trong điều trị dạ dày – hành tá tràng, nhóm nghiên cứu gồm các giáo sư, bác sĩ, dược sĩ uy tín của bộ môn Dược liệu, Đại học Dược Hà Nội, Viện kiểm nghiệm Bộ Y tế do GS.TS Phạm Thanh Kỳ đứng đầu đã kết hợp với Công ty Cổ phần Traphaco hoàn thiện quy trình sản xuất viên nang Ampelop quy mô công nghiệp 100.000 viên/mẻ và 1 triệu viên trong một lô sản xuất.
Thực tế sử dụng tại các cơ sở điều trị cho thấy, chi phí điều trị bằng thuốc Ampelop thấp hơn nhiều loại thuốc tân dược điều trị loét dạ dày - tá tràng đang bán trên thị trường Việt Nam hiện nay.
Việc phát triển nguyên liệu chè dây sản xuất thuốc Ampelop cũng đã góp phần tăng thu nhập cho nhân dân vùng núi, nơi có cây chè dây mọc hoang, như Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo cho người nông dân.
Tuy nhiên, hiện loại cây chè dây chỉ là một loài thảo mộc mọc tự nhiên, hoang dã trên các triền núi, vẫn chưa được nghiên cứu trồng tập trung và bảo tồn. Vì món lợi nhất thời, người dân đua nhau lên rừng chặt cây chè dây về bán đã vô tình tận diệt loài thảo mộc quý này
. Để đảm bảo khai thác lâu dài và bền vững nguồn dược liệu chè dây, dự án “Phát triển các hoạt động Thương mại Sinh học đối với các hợp chất tự nhiên - BioTrade” đã phối hợp cùng Traphaco nghiên cứu trồng và thu hái cây chè dây ở vùng núi cao theo tiêu chuẩn GACP-WHO (trồng trọt và thu hái sạch cây thuốc theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới).
Dự án đã tổ chức hướng dẫn nhân dân vùng cao, nơi có cây chè dây mọc hoang, bảo tồn nguồn nguyên liệu sạch này bằng cách thu hái lá, không chặt cành để bảo vệ và giúp cây chè dây tái sinh. Việc trồng và thu hái chè dây theo tiêu chuẩn GACP-WHO đã góp phần đảm bảo nguồn dược liệu đầu vào ổn định, chất lượng tốt để sản xuất ra thuốc điều trị dạ dày Ampelop hiệu quả, an toàn.
SK&ĐS