Ngày 7-5-2009, Tòa án Nhân dân quận Thanh Khê đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 153/2008/TLST-DS ngày 6-8-2008 về việc đòi lại tài sản và đã đi đến kết luận như sau: Áp dụng Điều 33 Bộ luật TTDS, Điều 41, Điều 470 Bộ luật Dân sự:
Chấp nhận một phần đơn yêu cầu “Đòi tài sản tặng cho” của ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ đối với ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài. Xử: 1) Tiếp tục giao nhà và đất tại 362 Lê Duẩn, thành phố Đà Nẵng cho vợ chồng ông Linh và bà Đài sở hữu, theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở số 3402071169 do UBND thành phố Đà Nẵng cấp ngày 15-6-2001 (đã được ông Linh, bà Đài làm thủ tục sang tên, trước bạ và đăng ký quyền sở hữu nhà đất tại Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng ngày 22-3-2002).
Buộc ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài phải có nghĩa vụ thối trả cho ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ 1/2 giá trị quyền sử dụng đất tương đương với số tiền 1.010.160.000 đồng. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ phải chịu số tiền 28.010.160 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 7.016.000 đồng theo biên lai thu số 1955 ngày 4-8-2008 tại Thi hành án dân sự quận Thanh Khê.
Ông Thanh, bà Cứ phải nộp thêm 20.994.160 đồng. Ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài phải chịu 28.684.385 đồng. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành. Ngay sau khi phiên tòa ra quyết định xét xử như trên, vợ chồng ông Nguyễn Ngọc Linh đã có đơn xin kháng án gửi đến các cơ quan chức năng.
Ngày 25-5-2009, Viện Kiểm sát Nhân dân quận Thanh Khê đã có Quyết định kháng án số 02/QĐ-KNPT-DS kháng nghị Bản án dân sự sơ thẩm số 142/2009/DS-ST ngày 7-5-2009 của TAND quận Thanh Khê theo thủ tục phúc thẩm. Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Viện KSND quận Thanh Khê nhận thấy: vi phạm về tố tụng như sau:
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2009/QĐXX-DSST ngày 6-2-2009 và các biên bản hoãn phiên tòa ngày 25-3-2009 và ngày 24-4-2009 Hội thẩm nhân dân (HTND) là ông Dương Thanh Tùng và ông Hoàng Gia Cát nhưng trong phiên tòa xét xử ngày 7-5-2009 HTND là ông Nguyễn Tấn Đồng và bà Lê Thị Hồng Anh, nhưng trong hồ sơ không có quyết định phân công HTND cũng như quyết định thay đổi HTND, như vậy đã vi phạm Điều 40 và 51 Bộ luật TTDS.
Ghi ngày thụ lý vụ án không đúng, ngày thụ lý của vụ án là ngày 6-8-2008 nhưng Thông báo về phiên hòa giải số 153/2008/TB-TA ngày 21-8-2008 và Thông báo về phiên hòa giải số 153/2008/TB-TA ngày 24-11-2008 ghi ngày thụ lý vụ án là ngày 30-7-2008. Thông báo về phiên hòa giải số 153/2008/TB-TA ngày 24-11-2008 nhưng mời các đương sự ngày 3-11-2008, trước 21 ngày so với ngày thông báo.
Việc tính án phí ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ phải chịu số tiền 28.010.160 đồng, ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài phải chịu 28.684.385 đồng là không đúng, vì số tiền ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ phải chịu án phí là 1.684.385.000 đồng tương đương 28.684.385 đồng tiền án phí. Số tiền ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài phải chịu án phí là 1.010.160.000 đồng tương đương 28.101.160 đồng tiền án phí.
Tòa án không quyết định giải quyết số tiền định giá tài sản 8.361.000 đồng nhưng trong phần “Xét thấy” đã nêu ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ phải chịu số tiền 5.476.291 đồng (37,49%) là không đúng, vì ông Nguyễn Ngọc Thanh và bà Ngô Thị Cứ phải chịu 62,51% số tiền định giá tương đương 5.226,461 đồng; ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Tăng Vũ Lan Đài phải chịu 37,49% số tiền định giá tương đương 3.134.539 đồng...
Vi phạm về nội dung: Việc xác định tranh chấp không thống nhất như theo đơn khởi kiện thì tranh chấp là “Đòi lại tài sản tặng cho” nhưng trong Quyết định phân công thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự xác định tranh chấp là “Kiện đòi tài sản”; trong thông báo thụ lý thì xác định tranh chấp là “Đòi lại tài sản tặng cho”; trong Quyết định gia hạn xét xử ngày 1-2-2009 xác định tranh chấp là “Đòi tài sản”; trong Biên bản nghị án ngày 7-5-2009 xác định tranh chấp là “Đòi tặng tài sản cho”; trong Bản án phần đầu xác định tranh chấp là “Đòi lại tài sản” nhưng phần quyết định lại xác định tranh chấp là “Đòi lại tài sản tặng cho”.
Trong phần nhận định, Tòa án áp dụng Điều 50, 57 Luật Hôn nhân Gia đình Việt Nam và Điều 41 BLDS để giải quyết là không có cơ sở vì Điều 50 Luật HNGĐ quy định về “Nghĩa vụ cấp dưỡng”; Điều 57 Luật HNGĐ quy định về “Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ”; Điều 41 BLDS quy định: “Quyền được hưởng sự chăm sóc của các thành viên trong gia đình” nhưng trong vụ án nguyên đơn chỉ yêu cầu đòi lại tài sản đã tặng cho chứ không có yêu cầu nào về việc thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng của con đối với cha mẹ...
Theo Viện KSND quận Thanh Khê, những vi phạm thủ tục nêu trên không làm thay đổi nội dung vụ án nhưng vi phạm về mặt nội dung gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Vì các lẽ trên, Viện KSND quận Thanh Khê đã quyết định: Kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm số 142/2009/DS-ST ngày 7-5-2009 của TAND quận Thanh Khê theo thủ tục phúc thẩm. Đề nghị Tòa án Nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ kiện theo hướng sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn...
HOÀI GIANG
.
.
Bản án sơ thẩm có vi phạm luật?
Thứ Hai, 15/06/2009, 07:50 [GMT+7]
.
;
.
.
Các tin khác
.
.
.