Con trẻ bơ vơ

.

Là giám đốc một doanh nghiệp đang “ăn nên, làm ra” nhưng chỉ vì hám lợi trước mắt, N.T.T.V (SN 1981, trú huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế) cùng chồng đánh đổi tất cả, đẩy tương lai nhưng đứa trẻ vô tội vào cảnh mịt mờ…

Để bản thân có vị trí trong xã hội, năm 2015, V. thành lập và làm Giám đốc Công ty TNHH N.T.T.V (đóng tại tỉnh Thừa Thiên Huế), ngành nghề du lịch, giới thiệu việc làm, dịch vụ visa, du lịch, lao động nước ngoài…

Năm 2022, muốn cuộc sống gia đình khá hơn, con cái đủ đầy, V. và chồng là T.H.H (SN 1971) thỏa thuận với người phụ nữ tên H. (trú Canada) để đưa người đi lao động dưới hình thức visa du lịch. H. chịu trách nhiệm phần thủ tục tại Canada và bố trí việc làm. V. lo tìm người có nhu cầu, chuẩn bị hồ sơ tại Việt Nam để người lao động tự do đáp ứng các yêu cầu về trình độ văn hóa, chứng chỉ, giấy phép, ngành nghề làm việc. T.H.H giúp vợ đào tạo một số lao động về kỹ thuật điện...

Hai bên thỏa thuận, H. thu 8.100 đô-la Canada (CAD) cho mỗi người V. đưa qua Canada lao động (tương đương 150 triệu đồng/ người). V. thu của người lao động 18.000 - 27.000 USD/người (tương đương 420 - 640 triệu đồng/người) tùy theo công việc hay trình độ đào tạo…

Cáo trạng xác định, qua tổ chức cho 13 người đi Canada lao động, V. trục lợi gần 3,6 tỷ đồng. Ngày 24-2-2023, V. bị khởi tố về hành vi tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài. Do đang nuôi con nhỏ dưới 3 tuổi nên V. không bị tạm giam mà chỉ cấm đi khỏi nơi cư trú. Lợi dụng điều này, một tháng sau, V. tiếp tục cùng chồng mua vé cho C. đi Canada từ Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng vẫn bị công an ngăn chặn.

Tuy nhiên, 3 trường hợp khác vẫn xuất cảnh thành công sang Canada vào tháng 3-2023. Do đó, hai vợ chồng V. có các tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng…

Là người phụ nữ từng trải và vô cùng ranh ma, V. rất điềm tĩnh khi ra pháp đình và trả lời rất rõ ràng những câu hỏi của hội đồng xét xử. Theo V., chỉ vì muốn làm giàu nhanh chóng, bị cáo đã kéo theo người chồng đang có công ăn việc làm ổn định... vào tù. “Bị cáo và chồng đã sai. Mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo và chồng sớm trở về hòa nhập cộng đồng, chăm lo cho hai con thơ dại”, V. nói lời sau cùng.

Cứng cỏi là thế, nhưng khi nghe hội đồng xét xử tuyên phạt chồng 8 năm tù giam và bản thân 10 năm tù giam cùng về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài, V. gục xuống bàn khai báo bật khóc. Bản án mà tòa tuyên phạt thích đáng với những gì mà V. và chồng gây ra. Nhưng rồi đây, tòa án lương tâm sẽ tiếp tục xét xử vợ chồng V., khi để những đứa con chưa ý thức được gì phải lớn lên bơ vơ, thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ, dạy dỗ của cha. Có cuộc sống đủ đầy là ước mong chính đáng của bất cứ ai, nhưng cách mà vợ chồng V. thực hiện ước mong đã khiến bản thân phải trả giá bằng chính sự tự do, cha mẹ già đau buồn và con trẻ bơ vơ.

Rời pháp đình, vợ chồng V. đưa mắt tìm cha mẹ và các con. Thấy cha mẹ bước ra xe đặc chủng, hai trẻ mới lên 3 và lên 5 đang đứng phía xa vội chạy đến để được ôm ấp, gần gũi và yêu thương nhưng không kịp. Còi xe hú vang, hai đứa trẻ giàn giụa nước mắt rời khuôn viên tòa án theo ông bà lớn tuổi trở về quê nhà, tiếp tục cuộc sống khốn khó đang chực chờ phía trước.

TRÍ DŨNG

;
;
.
.
.
.
.