.

Dạ cổ hoài lang 90 năm tuổi

.

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892 – 1976) để lại đời sau nhiều tác phẩm có giá trị như Thu phong, Minh loan thưởng nguyệt, Chiết hoa, Oanh vàng, Bái đường, Long châu, Ái cầm, Chim chiều, Giọt mưa đêm, Mai xuân, Tơ vàng, Hậu đình lê… Song, tác phẩm làm nên sự nghiệp của ông vẫn là “Dạ cổ hoài lang” (DCHL).

Cố nghệ sĩ Cao Văn Lầu. Ảnh: Tư liệu

Đến nay, danh tác này đã tròn 90 năm tuổi. Chín mươi năm qua, trên các sàn diễn đờn ca tài tử, cải lương, vọng cổ… ở Nam Bộ, danh tác DCHL vẫn còn được sử dụng thường xuyên như một tác phẩm chủ chốt, một “bài ca vua” trong các buổi ca nhạc truyền thống. Vinh dự này đã khẳng định DCHL là một tác phẩm sân khấu kinh điển, có giá trị vĩnh cửu. Điều này khiến những người làm công tác sân khấu nói riêng và những người làm nghệ thuật nói chung tự hỏi: điều gì đã làm nên sự bất tử ấy?

Một cấu trúc nghệ thuật mở

Theo nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc, DCHL mang trong mình cả 3 điệu thức đặc trưng của ba miền: giai điệu Hành vân, Xuân nữ trên nền điệu thức oán phương Nam. Giai điệu phong phú nhờ có sự kết hợp hài hòa giữa dân ca và cổ nhạc, giữa ca và nói. Nhưng nó không hời hợt dễ dãi mà theo nguyên tắc lấy yếu tố dân tộc làm gốc rễ cho yếu tố hiện đại phát triển.

Ở DCHL người ta dễ nhận thấy sự kết hợp hài hòa giữa chất tự sự và trữ tình. 20 câu trong ca từ ngắn gọn nhưng đã kể lại câu chuyện tình chia ly, lên đàng - nhớ thương và hy vọng. Ở đó mỗi sự tình là mỗi phiến đoạn của tâm tư hợp thành một chuỗi trữ tình dài với những phức hợp của một thế giới nội tâm đa dạng.

GS-TS Trần Văn Khê từng nhận xét: “…Nhờ tánh chất động, chữ xang dằn và già hơn một chút, chữ cống lại non và thấp hơn một chút làm cho cái buồn thêm rũ rượi, cho hơi thêm bay bướm, cho câu ca thêm mượt mà” [*]. Từ trong ca từ, DCHL đã có một sự đa dạng về nhịp, bản chất “động”, với một cấu trúc mở, đã khiến từ nhịp 2, dần dần tiến tới nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16, rồi nhịp 32, nhịp 64… Có lẽ, trong lịch sử sáng tạo nghệ thuật, ít tác phẩm nghệ thuật nào như DCHL đã không chỉ sống dài lâu cùng thời gian mà lại còn có khả năng biến hóa, tạo sinh thêm nhiều tác phẩm cháu con khác nhau trong một mô thức chung nhưng lại được “hiện đại hóa” liên tục.

“Vô nhiễm” trước danh, quyền và lợi

Bộ nhạc cụ lúc sinh thời cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã sử dụng để sáng tác và diễn tấu.

 

Cha ông là một nghệ nhân thổi kèn, đánh trống nhạc lễ, có lúc làm thầy tuồng cho gánh hát bội, vì thế người con Sáu Lầu ngày nào cũng đã thấm chất ca từ trang trọng của nhạc tuồng. Những lời ca từ như: phu tướng, kiếm sắc, tin nhạn, nghĩa tào khang, én nhạn hiệp đôi… mang hơi hướng bác học đã hòa với những lời dân dã: lên đàng, đừng lợt phai, trở lại gia đàng… tạo cho tác phẩm tinh thần “kinh điển” mà vẫn đậm chất đời sống dân dã. Vì thế, tác phẩm không chỉ được nhiều tầng lớp công chúng khác nhau đón nhận, giới học sĩ cũng yêu mến mà dân chúng cũng cảm thấy gần gũi… Nói theo ngôn ngữ ngày nay, tác phẩm đã có “thị trường” rất sâu rộng.

9 tuổi vì đói nghèo, cha ông, cụ Cao Văn Giỏi đã cho ông vào chùa học kinh kệ, chữ nho và làm công quả. Sau thêm 4 năm nữa, chú tiểu của chùa Vĩnh Phước lại được học xong lớp nhì và được thầy cô cho là giỏi Việt văn và Pháp văn. 16 năm tiếp theo, ông được thụ giáo nghệ thuật từ thầy Hai Khị, người được xem là Hậu tổ cổ nhạc. Ông học chuyên cần, chịu khó tập dượt rèn luyện, và nhờ tài danh, lại khiêm tốn nên ông đã thu hút được những danh tài khác đến để lập thành một ban nhạc tài tử lớn của Bạc Liêu. Từ đó, tính chuyên nghiệp ngày càng rõ rệt hơn…
 
Nhìn lại bước đường thành danh nhạc sĩ của ông, chúng ta hiểu vì sao trong DCHL tích hợp được điệu dân ca Nam Bộ, cách tụng hơi Ai của sư sãi và nói thơ Lục Vân Tiên… Từ nhạc tế lễ đến nhạc tài tử giải trí, từ ca ra bộ, sự đổi mới liên tục khiến ban nhạc tài tử của ông nổi tiếng khắp lục tỉnh. Vừa học tập, tích lũy kinh nghiệm, vừa năng động cải biên, ban nhạc và những tác phẩm của ông đã thu hút đông đảo công chúng quan tâm. DCHL là tác phẩm kết tinh nhất những phẩm chất nghệ thuật mà nhạc sĩ Cao Văn Lầu có được trên con đường sáng tạo của mình.

Ở DCHL, tiếng lòng của nỗi niềm riêng đã hòa vào nỗi buồn chung của thời đại vong quốc… Buồn nhưng không hề bi lụy, nét nhạc lạc quan trỗi lên cuối bài đã khiến bài ca vừa thấm tháp nỗi lòng của điệu buồn ai oán phương Nam, nhưng cũng gợi mở một niềm tin về phận nước. Ở đấy, từng người nghe DCHL vừa cảm nhận được nỗi lòng của mình, vừa thấy được mơ ước, khao khát chính mình. DCHL nếu chỉ dừng lại cái riêng cô độc lạc lõng của cá thể Sáu Lầu nhớ vợ thì chắc chắn giỏi lắm chỉ được vài trăm người đồng cảm, và chỉ lay lắt sống sau vài năm sinh thành. Nhưng khi nghe lời nhạc mở đầu:
 
“Từ là từ phu tướng – Báu kiếm sắc phán lên đàng” thì bài ca ấy đã âm vọng tiếng gọi lên đàng của thời đại, tiếng lòng chinh phu. Âm hưởng ai oán nhưng vẫn tràn chất bi tráng. Từ đấy, nỗi buồn xa cách và nhớ chồng riêng tư đã ký thác, gửi gắm tiếng lòng nhớ nước của bao nhiêu người giữa mờ mịt những năm đầu thế kỷ XX. DCHL đã tự mang trong mình tiếng nói của bao người muốn vạch một lối nhìn và hy vọng về một điều gì mới mẻ, là bài ca vừa mang niềm riêng của tác giả, vừa chất chứa tiếng lòng của thời đại. Vì thế, bao nhiêu thế hệ, bao tầng lớp khắp vùng Nam Bộ, cả kẻ sĩ cùng dân quê đã gõ nhịp hát DCHL để tự nghe thấy tiếng nói thầm thĩ buồn vui và hy vọng của chính mình.

Hội thảo khoa học về Dạ cổ hoài lang vào ngày 28-7-2009 tại TP.Hồ Chí Minh.

Bài học lớn nhất của người nghệ sĩ khi sáng tác danh tác này là đạt tới trạng thái “vô nhiễm” trước danh, quyền và lợi. Khi sáng tác “Dạ cổ hoài lang”, trong người nghệ sĩ Sáu Lầu chỉ có duy nhất làm sao tiếng nói nội tâm thăng hoa, hiện xuất và đạt tới một ngôn ngữ biểu đạt tốt nhất, thể hiện đầy đủ và súc tích nhất tình cảm, ước mong trầm tích bên trong nội tâm của mình. Đấy là bài học vỡ lòng và yếu lược nhất của người nghệ sĩ khi sáng tạo nghệ thuật. Thế nhưng, ngày nay cũng ít người có thể có được.

Vì thế, chúng tôi nhận thấy, DCHL của Cao Văn Lầu không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật sử dụng để biểu diễn mà còn là một mẫu tác phẩm điển hình để nghiên cứu và rút ra những bài học hữu ích cơ bản cho sáng tạo nghệ thuật hôm nay.

Lời bài ca

Từ là từ phu tướng,

Bảo kiếm sắc phong lên đàng.

Vào ra luống trông tin chàng.

Năm canh mơ màng.

Em luống trông tin chàng,

Ôi gan vàng quặn đau.

Đường dù xa ong bướm,

Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.

Đêm luống trông tin chàng,

Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu.

Vọng phu vọng luống trông tin chàng.

Sao nỡ phũ phàng...

Chàng là chàng có hay?

Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.

Bao thuở đó đây sum vầy,

Duyên sắc cầm lạt phai.

Là nguyện cho chàng

Hai chữ an bình an.

Trở lại gia đàng,

Cho én nhạn hiệp đôi.

LÊ QUANG ĐỨC

* Theo Vọng mãi bản Dạ cổ hoài lang, Sở VH-TT và DL Bạc Liêu, 2008, trang 9.


 

;
.
.
.
.
.