.

Đà Nẵng xưa trong thơ Nguyễn Quân

.

Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Quân, trong một buổi họp lấy ý kiến về việc đặt tên phường mới, tách ra từ phường An Khê. Hôm ấy, nhà thơ già khẩn khoản đề nghị tôi, với tư cách là người nghiên cứu lịch sử, văn hóa nên tham mưu cho thành phố lấy lại tên làng ông – làng Xuân Hòa để đặt cho phường mới. Thấy mắt nhà thơ ngấn lệ, tôi cố pha trò:
 

Những tác phẩm trĩu nặng Đà Nẵng xưa của Nguyễn Quân.

“Về việc này, hiền đệ xin thọ tội vì “bó tay chấm cơm”! Nghe vậy, Nguyễn Quân cười như mếu! Sau cuộc họp, nhìn dáng hao gầy, lầm lũi bước đi của Nguyễn Quân lẫn trong tiếng ông lẩm bẩm như tiếng thở dài: “Cái tên Xuân Hòa rất hay, đã có từ lâu đời!”, tôi bỗng thấy lòng mình trĩu nặng. Từ sau lần gặp nhau đó, tôi bắt đầu chú ý đến Nguyễn Quân và thơ ông. Càng đọc thơ Nguyễn Quân, tôi càng thấy ông yêu cái làng Xuân Hòa và vùng đất Hàn xưa như là máu thịt. Lật mấy tập thơ được tặng, tôi thấy phần tiểu sử tác giả ở bìa 4, đều ghi “Quê quán: làng Xuân Hòa”! Tôi rất băn khoăn điều này, vì làng Xuân Hòa của ông đã thành “phố” khi là “nội nhượng” của Pháp cách đây chừng... 120 năm trước, sao ông vẫn cứ muốn là “người ở làng”?!

Thơ Nguyễn Quân trở đi, trở lại với đề tài về cây đa, bến nước, con đò, về chợ quê, làng xưa, phố mới như một sự giằng xé, day dứt khôn nguôi. Tôi hiểu được nỗi đau mất tên làng của Nguyễn Quân, cảm nhận được sự mất đi của các giá trị văn hóa, lịch sử của Đà Nẵng và khắp nước ta trong tiến trình đô thị hóa mạnh mẽ hiện nay, qua chính thơ ông. Nguyễn Quân van: “Xin đừng đổi tên làng” bởi, “Biến cố biến thiên… làng vẫn giữ được làng” (Tên làng…)[1]. Ông đã nói lên bằng thơ một nguyên lý có thực, một định đề bất biến của dân tộc Việt, rằng: “Đất nước của làng và làng của đất nước” nên: “Đừng đổi tên thành con chữ vô hồn”.

Tuổi 50 trở về lại với làng, sau mấy chục năm xa quê đi theo cách mạng, Nguyễn Quân cảm nhận được sự mất mát, trước cảnh vật đổi sao dời, người xưa đã mất. Còn đâu “Dáng mẹ liêu xiêu đồng sâu, đồng cạn – Cha sục những đường cày sau cơn lũ đi qua”; còn đâu “sáo sậu, sáo đen, cà cưỡng, chào mào” đậu trên Cây Da Cháy thuở nào… Về lại làng xưa song ông không còn kịp gặp lại những dì Năm, chú Bảy, không còn được diện kiến những nơi từng ghi lại ký ức tuổi thơ ông như:

Cây Da Cháy, sông Thanh Khê, làng chài Hà Khê xưa ấy: “Tôi về lại hơn mười năm xa xứ - Đứng tần ngần nhìn ngã bốn, ngã ba - Con đường nhỏ mở ra và nâng cấp - Về quê xưa tìm hỏi phố Xuân Hòa?” (Người về phố cũ). Và hơn nữa, “Cư dân mới đông hơn dân làng cũ - Phố quê xưa cũng thiếu vắng em rồi”. Về sống trong “làng lên đời” song Nguyễn Quân vẫn giữ cung cách của “người nhà quê”: “Quen gọi xóm - Chẳng gọi phường, gọi phố - Khao khát con đường bóng mát, hàng cây” (Phố quê tôi).

Rồi một ngày kia, tại bến sông quê, Nguyễn Quân gặp lại ông lái đò năm cũ: “Tôi trở về bến cũ sông quê - Người ngồi câu cạnh chân cầu - Là người lái đò hai mươi năm trước - Khách còn nhận ra ông - Ông làm sao nhớ được - Người qua sông nay đã trở về…” (Trên bến sông quê). Cái tứ thơ “ông lái đò” đã cũ, song Nguyễn Quân đã để ông lái đò ngồi câu ngay chân cầu – nơi bến đò xưa ông thường đưa khách sang sông, như một sự mặc nhiên, chấp nhận. Thật là một cái nhìn mới và hiện đại trong thơ Nguyễn Quân, khi ông phá bỏ được cái mô-típ cũ: ông lái đò và bến sông xưa thường được diễn đạt buồn.

Điều kỳ diệu và chua xót nhất của kiếp người là: sống trong hiện tại nhưng lại có thể mơ ước tương lai và kéo cả quá khứ ùa về. Chính vì thế, nên con người vừa đau với nỗi đau của quá khứ nhưng lại phải khôn nguôi toan tính cho tương lai và luôn đối mặt với thực tại. Về lại quê xưa, Nguyễn Quân thảng thốt khi thấy sự mất dần đi của các giá trị xưa:

“Làng quê tôi đang tu sửa lại một ngôi đình

Thợ ngày nay đắp thân rồng thật lạ

… Không dễ trùng tu

Trong tâm tưởng người đi dấu ấn khó phai mờ”

(Làng…)

Chiều quê bên làng Lỗ Giáng.  Ảnh: Mai Hoa

 

Tôi rất tâm đắc với từ “lạ” của bài thơ này. Làm sao mà không lạ cho được Nguyễn Quân ơi, khi con rồng uy nghi trên nóc đình làng Xuân Hòa xưa nay đã mất, thay vào đó là con rồng màu mè, được cẩn vảy bằng sứ Giang Tô của Trung Quốc đang còn bốc mùi nung; mắt rồng chớp nháy đèn điện đỏ, xanh nhưng rất vô hồn. Nguyễn Quân đã khái quát được một thực trạng có thực: nhiều di tích trăm tuổi được “trùng tu” thành... một tuổi.

Khác với Vũ Đình Liên đẩy nỗi buồn dâng lên chất ngất khi vẽ ra hình ảnh “Ông đồ vẫn ngồi đó – Ngoài trời mưa bụi bay”; khác với Nguyễn Bính vì quá đề cao “Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen” mà lên án quá mức “áo cài khuy bấm”, Nguyễn Quân khóc thầm vì tên đất, tên làng, vì những kỷ niệm xưa đã mất song ông lại không quay lưng, cự tuyệt cái đang hiện hữu quanh mình; vẫn thấy vẻ đẹp của cái mới được tạo nên từ cái cũ:

“Xóm quê cũ vừa bày ra mặt phố - Người và xe thức dậy những mặt tiền - Con đường mới như dòng sông lấp loáng - Dải lụa mềm, bước em gái thêm duyên” (Người về phố cũ). Nhiều địa danh trong thơ Nguyễn Quân có ý nhắc người đọc hướng về với Đà Nẵng xưa. Nguyễn Quân đã khéo léo đan cài kỷ niệm của mình trong các địa danh, làm cho cái làng Xuân Hòa hay rộng ra là Đà Nẵng, bỗng trở nên gần gũi với người đọc.

Có lẽ Nguyễn Quân tự biết mình không có nhiều sở trường trong việc tạo ra bút pháp nghệ thuật riêng nên ông đặc biệt chú trọng ý thơ và sử dụng cấu trúc thơ đối lập. Ông cũng thường sử dụng biện pháp tu từ bằng những câu hỏi được bỏ lửng, bằng các dấu gạch ngang (-), dấu ba chấm (...) để tạo trường liên tưởng cho người đọc song cũng tạo nên các “bất đẳng thức” đối lập như: cũ - mới, xưa – nay, phố - làng, đò - cầu... khá thú vị.

Trong lúc nhiều nhà thơ đang cố gắng làm thơ “đừng cho ai hiểu”, “Làm thơ phải nói về tính dục – Như ngàn đời qua chẳng ai biết chiếu chăn”[2] thì lại có một “nông phu” Nguyễn Quân cày sâu cuốc bẫm trên cánh đồng thơ xưa ấy, đã lanh lảnh cất lên tiếng chim chiền chiện vang lừng. Thơ như thế, người như thế, thật đáng quý biết bao!

LƯU ANH RÔ



[1] Những câu thơ trong ngoặc kép trong bài này đều trích từ thơ Nguyễn Quân.
[2] Ý thơ trong “Tú Mỡ - Người gieo tiếng cười” của Vu Gia, Nxb Thanh Niên, 2008, tr.15.

;
.
.
.
.
.