Nói đến nghệ thuật tuồng thì hầu như ở đâu và bao giờ người ta cũng lại nói đến việc bảo tồn di sản, phải kế thừa truyền thống, phải dân tộc và tiên tiến, v.v... Nhưng suốt chừng ấy năm qua, ở đâu không biết chứ đối với nghệ thuật tuồng, người ta vẫn chưa biết phải kế thừa và hiện đại nó như thế nào.
Một cảnh trong tuồng Sơn Hậu- Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh |
Cứ mỗi lần nói đến đặc tính, tính chất của nghệ thuật tuồng là người ta nói đến tính ước lệ cao của tuồng mà quên đặt tiếp câu hỏi rằng nó ước lệ như thế để làm gì. Có người nói rằng nghệ thuật tuồng chính là bản sao của nghệ thuật Kinh kịch Trung Quốc. Nhưng, dầu có xuất phát từ đâu chăng nữa thì nghệ thuật tuồng cũng đã gắn bó với dân tộc ta suốt một ngàn năm qua, nó giữ và truyền cái yêu cái ghét, cái độ rung cảm của tâm hồn người Việt từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Nếu chúng ta hôm nay đã quen với cách thưởng thức nghệ thuật thiên về tình huống, tiếp nhận thông tin mới và chỉ có thông tin mới, thì cha ông ta ngày xưa lại có cách thưởng thức khác đó là: Xem diễn chứ không xem tình huống. Với cách thưởng thức nầy người xem không hề thụ động mà trở thành như một giám khảo có thể cảm nhận được những nét diễn tinh tế nhất và bình phẩm nó thông qua chiếc trống chầu. Như vậy là khán giả đến với sân khấu hát bội đồng thời cũng mang theo cả sự hiểu biết về cuộc sống mà họ đã nếm trải.
Nghệ thuật tuồng là nghệ thuật sân khấu toàn diện, nó cho phép diễn viên mô tả một cách đặc sắc tâm hồn của nhân vật thông qua toàn bộ cơ thể họ với một loại ngôn ngữ sân khấu khá độc đáo. Ngôn ngữ nghệ thuật tuồng khuếch đại tất cả mọi diễn biến tâm lý và người xem như nhìn thấy tất cả "ruột gan" nhân vật. Chính vì thế nghệ thuật tuồng rất thích hợp với các tình huống bi thiết, uẩn khúc, tâm trạng và những nỗi đau lớn. Cái “ruột gan” được phơi bày ở đây mang vẻ đẹp của những viên ngọc quý trong tâm hồn con người, và vì thế mà người ta xem đi xem lại, ngắm đi ngắm lại hàng trăm lần không biết chán.
Với cách nhìn này chúng ta dễ dàng hiểu được những cái như là bí ẩn, khó hiểu của nghệ thuật tuồng ví dụ như là mặt nạ, râu, cờ (cắm sau lưng), đôi hia, ngựa, v.v... Tất cả đều giúp ngưòi diễn viên khuếch đại các động tác và qua đó tâm lý nhân vật cũng được khuếch đại lên. Chúng ta hãy thử hình dung tâm hồn của con người ta trong những tình huống như Hoàng Phi Hổ quá giới bài quan, Đổng Kim Lân biệt mẹ... được khuếch đại lên, khi mà cái đau, cái bi tráng, cái uẩn khúc của tâm trạng đều được bộc lộ ra và nhìn thấy rõ ở đầu ngón tay, đầu mũi hia. Cách run tay, run chân, cách chỉ ngón, đi hia, vuốt râu, trợn mắt... tất tất đều một mục đích tối hậu và duy nhất là để người xem nhìn thấy cái sắc thái tâm lý, hay nói cách khác là cái tâm hồn của nhân vật. Mặt đen, mặt đỏ, râu ngắn, râu dài... tất thảy cũng đều vì cái mục đích ấy: Người xem không phải mất thời gian đoán già đoán non rằng đó là người trung hay tên nịnh, kẻ ác hay người hiền mà đi ngay vào việc nhìn ngắm cái tâm hồn phía trong cái mặt đen, mặt đỏ, râu ngắn, râu dài ấy.
Ngay cả ở cách hát thì tuồng cũng khác với cải lương nhiều lắm. Nếu cải lương thiên về biểu diễn chất giọng của diễn viên thì ở tuồng đó là sự lột tả quá trình diễn biến tâm trạng của nhân vật. Ví dụ mà các nhà nghiên cứu hay đưa ra là câu nói lối của Hoàng Phi Hổ khi ngóng trông vợ vào cung gặp vua Trụ vốn là ông vua dâm dục: “Từ phu nhân gác giá. Hầu Khánh đản cung trung. Trời đã xế vừng hồng. Sao chưa về phủ tía... Thường những diễn viên không sành nghề không sao diễn tả được cái tâm trạng lo âu của nhân vật, họ chỉ lo hát sao cho ngọt cho mùi là đạt mục đích. Cái chữ vừng hồng phải hát lên như là hỏi đất hỏi trời, hỏi cả cái lòng kẻ quân tử sao trời lại bắt phải rơi vào cái cảnh ngộ éo le đến thế?
Và vì thế chúng ta cũng chợt hiểu vai trò của chiếc trống chầu, cái thứ khá ồn ào không thể xuất hiện trong kịch hoặc cải lương, nó tham gia vào diễn xuất bằng cách bình phẩm. Khán giả đến với sân khấu hát bội đồng thời cũng mang theo cả sự hiểu biết về cuộc sống mà họ đã nếm trải. Họ bình phẩm và không còn màng đến cốt truyện nữa, họ như nhẩm hát, nhẩm nói theo nhân vật. Tất cả những gì độc đáo trong ngôn ngữ nghệ thuật tuồng đều dường như xuất phát từ mục tiêu là tạo điều kiện cao nhất cho người diễn viên phô diễn tài nghệ diễn xuất.
Nghệ thuật ước lệ cũng chính là sự tiết giản tối đa cảnh trí sân khấu để mọi chú ý được dồn vào diễn xuất. Người xem đâu cần quan tâm đến con ngựa màu gì mà chỉ muốn biết cái tâm trạng của người đang cưỡi trên cái con ngựa đó như thế nào. Sông núi, chiến trường, núi cao, đèo thấp... tức ngoại cảnh hoàn toàn không đáng và không nên dựng lên trên sân khấu.
Theo truyền thuyết tổ của nghệ thuật tuồng là một cậu Hoàng con, vì say mê xem hát bội, xong vở vẫn không muốn về, nằm lại trên chái rạp mà sống cùng các nhân vật. Cuối cùng khi mọi người phát hiện ra thì thân xác cậu đã héo khô trên mái rạp. Nói cách khác, TỔ của nghệ thuật tuồng chính là khán giả. Hình như cứ mỗi lần cố gắng để hiện đại hóa, đổi mới nghệ thuật tuồng thì người ta lại cảm thấy xa tuồng hơn một bước. Nhiều người nhìn thấy sự lụi tàn của nghệ thuật tuồng đã đau đớn nghĩ rằng trách nhiệm thuộc về thời đại hôm nay đã thua kém cha ông trong việc sáng tạo các vở mới. Hằng năm, các cuộc liên hoan được mở ra, các vở diễn mất bao nhiêu công sức để dàn dựng rồi xếp lại.
Người viết bài này cứ có dịp xem trích đoạn Hồ Nguyệt Cô Hóa Cáo ở Hội An. Đã xem không biết bao nhiêu lần rồi nhưng lần nào cũng vậy, kinh khiếp và sợ hãi. Các du khách cũng thế, họ không thể hiểu được diễn viên đang nói gì, hát gì nhưng, người xem như bật ra tiếng kêu kinh hãi khi nhìn thấy cảnh Hồ Nguyệt Cô bị tình yêu lừa dối cướp mất ngọc nên phải trở lại lốt cáo. Lông mọc lên ở tay rồi mặt, tay chân mọc vuốt rồi tiếng nói cũng mất dần để chỉ còn lại những tiếng tru đau đớn của loài cáo!
Và phía người xem, những vị tổ của nghệ thuật tuồng, nhất là các bạn trẻ, đừng có tin rằng thứ tuồng mà các bạn thấy trên ti vi đó là tuồng đích thực. Xem Hồ Nguyệt Cô do Đàm Liên đóng trên ti vi thì cứ thấy nó thế nào ấy, còn ở Hội An, dù chỉ là diễn viên nghiệp dư, nhưng thực sự là những làn sóng cảm xúc mãnh liệt tấp vào mình. Có lẽ ti-vi là cái thứ mô tả hiện thực đến mức khắc nghiệt, nó không dung nạp được cái nghệ thuật chỉ diễn tả tâm can? Các bạn trẻ hãy cố gắng thử một lần đến với sân khấu tuồng đích thực, các bạn cần phải biết, đến thuộc lòng càng tốt, vở tuồng mà mình sẽ xem. Và đến một lúc nào đó, bạn cầm được cái chày trống chầu rồi giục những hồi trống gióng giã, đích đáng, sắc sảo bình phẩm trình độ của diễn viên thì đó cũng là lúc có thể nhắc lại câu hát cũ:
Tháng ba, ngày tám nằm suông.
Nghe giục trống tuồng, cố lết đi xem.
Hồ Trung Tú