.

Những người nặng lòng với hến

.

Người Huế thường khoe cơm hến là một món ăn dân dã nhưng hết sức thanh tao, ý vị. Bây giờ thì cơm hến đã lên ngôi đặc sản, không chỉ trên đất Huế. Mấy ai biết, để cung ứng những con hến nhỏ li ti lăn tăn như cái mút đũa làm món cơm hến, có một làng hàng trăm năm nay, quanh năm suốt tháng phải lặn hụp trên dòng Hương giang để cào dũi, và họ có hẳn một lễ cúng hến rất trang trọng.

Tích cũ, chuyện xưa

Toàn cảnh Cồn Hến nhìn từ sông Hương.

Theo lệ, ngày mở hội là ngày 24 tháng 6 âm lịch hằng năm. Ba năm một lần làm lễ lớn, từ 2 đến 3 ngày, ngày chính lễ là ngày 24 tháng 6 âm lịch. Năm thường thì làm tiểu lễ (chỉ đi rước) và cây phan (cây tre buộc tấm lụa đỏ) cắm giữa sông sẽ nhỏ hơn, không có điểm hội đồng như đại lễ.

Lễ tục độc đáo cúng hến bắt đầu từ đời Thành Thái thứ 4 (1892). Do ở phường Giang Hến có bà Trần Thị Thẹp đi “tròng” (thuyền nhỏ) ra dũi hến ở trước đình Hương Cần (huyện Hương Trà), bị hương lý kéo ra bắt, đưa cả bà và “tròng” lên bờ đòi nộp phạt, lý do khá kỳ cục “Hến về làng, thành hoàng về miếu”. Dân phường Giang Hến biết tin - từ khi vua Gia Long lên ngôi, vùng Cồn Hến được đặt tên là phường Giang Hến, viết đơn đi kiện…

Kết quả vụ kiện hy hữu này được Vua Thành Thái hạ bút phê: “Từ đầu nguồn đến cuối sông biển, ao hồ chịu thuế, sông nước được dùng tự do”. Thắng kiện, phường Giang Hến kết long đình trên thuyền, trang trí cờ lọng đi rước bản châu phê về làm lễ tạ, dân Hương Cần theo lệnh vua phải thả bà Thẹp, và trả chiếc “tròng” của bà xuống nước. Dân làng đã lấy ngày này làm ngày lễ tế hằng năm. Mở hội

Tiến trình lễ hội bắt đầu bằng việc kết thuyền trang trí long trọng, có án thờ giữa thuyền ở đầu Cồn Hến (ngã ba sông Hương). Ở giữa sông cắm cây đại phan, gọi là “Hội đồng thần kỳ” do các bô lão túc trực ngày đêm. Một đoàn thuyền khác, thuyền đều trang trí cờ lọng, án thờ kết hoa, có trống, chiêng, phường nhạc bát âm, xuất phát từ “Hội đồng thần kỳ” trung tâm, chia làm hai hướng thượng nguyên và hạ nguyên gọi là cung nghinh thần kỳ sông nước các nơi. Khi đến mỗi địa điểm, chọn nơi có điều kiện, bày hương hoa, quả phẩm, gạo muối làm lễ nghinh rước, đủ 3 tuần rượu rồi cung nghinh về điểm xuất phát. Sau đó, lên bờ trở về nhà thờ chung 12 họ khai canh để làm lễ rước thần khai canh cùng về đình hiệp tế.

Tất cả người tham dự hội lễ đều là nam giới, từ các vị bô lão, trung niên cho đến thanh niên. Ðám rước thần sông nước do một số trai tráng mặc áo dài đen, thắt lưng bằng vải đỏ gánh án thờ chính ở điểm hội đồng. Phía trước lại có một số người mặc áo dài đen, thắt lưng vải đỏ, cầm chèo thuyền, phân làm hai hàng, vừa đi vừa làm động tác chèo thuyền uyển chuyển và cất giọng hò mái đẩy, có kèn trống, giàn nhạc phụ hoạ gọi là “chèo cạn”.

Các chức sắc trong phường cùng với dân làng, ăn mặc y phục cổ truyền đi theo đám rước để hầu thần. Trước khi đám rước vào đình còn phải ghé vào nhà thờ họ để làm lễ rước thần về hợp tế. Thần khai canh phường Giang Hến là ông Huỳnh Tương, nguyên người làng Diên Ðại, huyện Phú Vang, tới Cồn Hến lập nghiệp bằng nghề dũi hến.

Nặng lòng với hến, quanh năm cần cù lao động “bòn tro đãi sạn” - như cách nói của người Huế, phường Giang Hến vẫn nghèo! Nhưng, những người dân cào hến không bỏ nghề xưa truyền lại: “Chúng tôi xác định nghề nào cũng là nghề, sông không phụ người, đất cũng không phụ người”.

VŨ HÀO

;
.
.
.
.
.