.

Nhớ thầy Xuân!

Cùng người bạn học cũ, anh Hồng Minh, hai chúng tôi chạy vòng vo quanh thành phố Biển. Ðà Nẵng quê tôi những ngày Tết thật êm ả và ấm áp. Sự im lặng của phố cùng nguồn nắng mới, hoa lá đầu năm, có chút se lạnh.

Dịp đến Ðức theo lời mời của Viện Goethe-institut nói về thơ trẻ, Hồng Minh đã có chuyến du lịch châu Âu sang Paris, được gặp nhà văn Phan Huy Ðường, nhà phê bình Thụy Khuê. Họ đã luôn nhắc đến một cựu giáo sư Quảng Nam-Nguyễn Văn Xuân, họ đã nhìn nhận con người này, một cách đáng quý trọng, về sự thầm lặng trong quan điểm, sâu sắc trong nghiên cứu. Dịch giả Nguyễn Tiến Văn đã có dịp về Việt Nam, đến Ðà Nẵng thắp hương nhà thờ cụ Phan Châu Trinh và thăm gia đình học giả Quảng Nam-Nguyễn Văn Xuân. Ông Nguyễn Tiến Văn đã nhận định: "Nguyễn Văn Xuân đã thực sự là "nhân vật sống" của Quảng Nam-Ðà Nẵng, là nhà văn có tiểu thuyết "Bão rừng" rất giá trị tại miền Trung này, người chính kiến trong khảo cứu, nghiên cứu trên mảnh đất xứ Quảng từ thời Pháp cho đến thời đại hôm nay".

Nhớ lại một thời, từ con hẻm nằm trên đường Thái Phiên, chạy thẳng đến căn nhà cuối chót. Nguyễn Văn Xuân vẫn minh mẫn như ngày nào, cười vui vẻ tưởng chừng đang ngồi "trà dư tửu hậu" cùng nhiều thế hệ học trò là Trần Trung Sáng, Ðặng Ngọc Khoa, Lê Văn Thọ... hay vài nhà thơ miền xa xứ mỗi lần ghé qua thăm hỏi... ở tại quán cóc cà phê, luận bàn về văn hóa xứ Quảng.

Ngày Tết, tôi lặng lẽ nhìn vào ngôi nhà ủ màu vôi cũ cùng những khoảng u tối, bề bộn về hoàn cảnh đáng buồn của gia đình ông. Tôi thấy xót xa, khi nhớ lại những ngày ông ngồi trên xe lăn, hai chân bị liệt, chỉ còn có đôi tay và khuôn mặt ốm o ở tuổi già. Ông cười rất tươi, bộ râu bạc trắng hôm nào ông đã cạo đi để đón Tết Bính Tuất 2006. Trông dáng vẻ ông thật là bình dị. Năm đó, Hồng Minh gửi tặng ông tờ báo Doanh nghiệp Chủ Nhật, trong đó có bài "Paris một thoáng Nguyễn Văn Xuân". Ông đọc thật tỉnh táo mà không cần đeo kính mắt. Cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên. Tôi nói: "Dạ, thầy Xuân đôi mắt còn tốt quá!". Ông cười vui vẻ: "Ời, kệ, ông trời cho mình cái chi mình nhờ".

Nụ cười buổi đầu năm của ông vui vẻ, chứa bao niềm yêu thương.

Ông ngồi dựa trên xe lăn, ngậm ngùi đọc thật kỹ từng chữ và khen: "Bài này viết hay. Bây giờ xã hội cần những người trẻ như các cậu...". Lúc ấy, một cô sinh viên ở trọ nhà ông nói vọng ra: "Ông ơi, cháu làm con dâu ông nghe... hì hì". Ông vừa cười vừa trả lời: "Ra đây nắm cái tay coi thử làm dâu được không?". Chúng tôi cùng cười. Ông bảo từ mấy năm nay, vợ ông sống nhờ vào số tiền cho sinh viên thuê ở trọ. Anh con trai ông thì cười thật hiền. Anh thương cha và mỗi sáng mỗi chiều, vẫn đẩy chiếc xe lăn cho ông lên xuống giữa những con đường Bạch Đằng, Thái Phiên, Phan Châu Trinh để đợi cơn gió mát hay ngắm nắng úa tàn. Thỉnh thoảng, anh đưa ông đi chơi hay thăm vài người bạn già của ông.

Tôi không là học trò vị học giả Nguyễn Văn Xuân, chỉ là con cháu nhưng thường được gặp những anh em văn sĩ vẫn thường hỏi đến ông. Hầu hết là học trò, đặc biệt những người lớn tuổi, cô chú trong gia đình tôi đều là học trò của ông. Tôi vẫn thích ông đọc câu ca dao : "Bên ni Hàn ngó sang bên kia Hà Thân nước xanh như tàu lá; Bên kia Hà Thân ngó về bên ni Hàn phố xá nghênh ngang. Từ ngày Tây lại cửa Hàn, Ðào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu, dặn lòng ai dỗ đừng xiêu. Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau". Hay ông viết trong tập kỷ niệm 50 năm Trường Phan Thanh Giản những điều mà thế hệ trẻ ngày nay cũng cần ghi nhớ, về việc học hành đỗ đạt để làm gì?

Tôi vẫn thích đọc Nguyễn Văn Xuân viết về Quảng Nam-Ðà Nẵng, cái rành mạch càng đọc càng thấy lên tính giản dị của những tên gọi Ðà Nẵng, từng buổi thay da đổi thịt, từng thời kỳ, mọi kiến thức về con người xứ Quảng. Ông viết về Quảng Nam thật tinh tế vì ông đã sống và chứng kiến bao thời cuộc đi qua. Ông có rất nhiều học trò. Cái tên "thầy Xuân" đã quen thuộc với bao nhiêu thế hệ học trò xứ Quảng.

Đà Nẵng mỗi độ chiều về, vẫn là chiếc xe lăn với dáng ông ngồi tay cầm cuốn sách, một vầng trán cao và đôi mắt sáng ngắm nhìn những góc phố thân quen nơi từng vòm tuổi đã đi qua. Tôi không biết ông nghĩ gì về Đà Nẵng.

Giờ thì ông đã không còn, để nói cho những người trẻ như tôi hiểu biết thêm về văn hóa Quảng Nam, Đà Nẵng.

Độ xuân về, tôi vẫn như trông thấy ở nẻo đường xa, dáng con trai ông cặm cụi đẩy chiếc xe lăn đi về trên tuyến đường quen thuộc.

HUỲNH LÊ NHẬT TẤN

;
.
.
.
.
.