.
Chuyện xưa xứ Quảng

Mấy chuyện kể về chợ Thu Bồn

.

Chợ Thu Bồn, nay thuộc xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, có mấy câu chuyện khá lý thú và hấp dẫn, tuy xảy ra đã lâu nhưng đến nay nhiều người còn nhắc lại.

Chợ Thu Bồn ngày nay. (Ảnh: Đ.Đ)  

Chuyện đầu tiên gắn liền với việc lập chợ. Tương truyền, hồi cuối thế kỷ XVIII, có cha con ông Phạm Tự Điện chuyên đi buôn vải, quanh năm suốt tháng gánh vải đi từ Duy Xuyên qua Đại Lộc đến Quế Sơn... Bấy giờ, do người ít, đường vắng nên bọn cướp thường tổ chức trấn lột. Nhiều phen bị mất vải, mất hồn, suýt mất cả mạng, ông Điện kinh hãi, thấy gánh vải đi bán quá bất tiện, khó đối phó với những hiểm nguy trên đường, bèn nghĩ cách xin lý trưởng cho phép lập quán bán vải ngay ở cuối làng.

Là dân buôn vải chuyên nghiệp, quen biết nhiều nên chẳng bao lâu sau người trong làng, rồi ngoài làng đến chỗ ông mua vải khá đông. Thấy vậy, một số bà con kẻ bán thêm cái này, người bán thêm món kia, đông dần lên thành ra chợ. Đã có chợ là có ông trùm chợ, một chức sắc nhỏ trong làng, có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong chợ. Lạ một điều là, trải qua 5 đời, ông trùm chợ bao giờ cũng là người họ Đặng, trong đó trùm chợ cuối cùng trước khi Pháp đánh vào làng năm 1946 khiến chợ dời sâu vào trong, là ông Đặng Cư.

Xem ra, chợ Thu Bồn hình thành vào khoảng cuối thế kỷ XIX, muộn nhất cũng đầu thế kỷ XIX, cách nay hơn hai trăm năm.

Chuyện thứ hai: dời chợ. Chợ đã lập, sao phải dời? Số là vị trí chợ đầu tiên nằm ở ngay sát bờ sông, đặc điểm của hầu hết chợ ở Quảng Nam xưa, để tiện việc chuyên chở hàng hóa, hành khách. Thế rồi, trong trận lụt lớn đầu thế kỷ XX, chợ bị lở, phải dời vào vị trí chợ hiện nay. Câu vè xưa còn nhắc: "Dời chợ dời chợ/ Lời nói nên nợ/ Lở chợ phải dời...". Người có công trong việc bỏ tiền bạc ra mua đất dời chợ là ông Bùi Khái, một bá hộ, người tộc Bùi của thi sĩ nổi tiếng Bùi Giáng.

Nhưng, dù chợ cũ hay chợ mới, cũng như nhiều chợ quê khác, chợ Thu Bồn cũng làm bằng vật liệu thô sơ, chủ yếu tranh tre, hình chữ nhật, hai hàng lều ở giữa chợ, hai bên vừa dùng làm chỗ ở, vừa bán hàng. Sau chợ có đình, được dời từ chợ cũ lên chợ mới. Trước chợ là đường cái quan. Ở gian sau có miếu, gọi là miếu thờ Bà. Đặc biệt, dù là chợ mới hay chợ cũ, chợ đều ở gần bến sông, gọi là bến sông Thu Bồn. Đó cũng là nơi mấy chục năm trở về trước dân vạn (những người chuyên sinh sống trên sông nước), còn gọi là vạn Thu Bồn, lấy ghe làm nhà, làm chỗ "định cư". Hồi năm 1945, vạn Thu Bồn có không dưới ba chục chiếc ghe, đậu gần như kín mé sông.

Chuyện thứ ba: vua Bảo Đại phát chẩn. Chợ Thu Bồn từng được vua Bảo Đại nhà Nguyễn ngự giá đến thăm. Theo ngôn ngữ bấy giờ, gọi là vua đi “giá ngự”. Cho nên, bến Thu Bồn, nơi vua từ thuyền rồng bước lên chợ, còn có tên là bến Giá Ngự. Là vua, tuy không có thực quyền, nhưng khi đi đến đâu, tất nhiên báo hại từ quan tỉnh đến quan huyện, quan tổng, rồi lý trưởng phải… xanh mặt lo đón tiếp.

Tương truyền, lúc đến chợ, vua tổ chức phát chẩn cho dân nghèo. Được tin, bà con ở các làng xã lân cận như người Gia Cốc, Trang Điền, ở thập xã Đá Mài bên Đại Lộc, rồi dân các làng Mỹ Lược, Thạch Bàn, Mỹ Sơn... thuộc Duy Xuyên cũng tập trung đến. Lý trưởng đốc sức dân đinh đem cờ xí, chiêng trống đánh vang trời để đón Giá Ngự. Không đón tiếp linh đình, không cờ xí, chiêng trống long trời lở đất, không xong đâu.

Chuyện thứ tư: ăn bánh tét... no kè. Chuyện tuy không nổi đình nổi đám nhưng được người dân nhớ mãi. Khoảng năm 1930, thực dân Pháp bắt ông Trần Diện, một “cộng sản” chính hiệu, một nhân vật hoạt động cách mạng nổi tiếng ở Quế Sơn, chúng hí hửng dẫn ông về chợ. Lý trưởng làng Thu Bồn được lệnh bắt dân canh gác ba ngày hai đêm. Đây cũng là dịp thực dân Pháp, phong kiến rêu rao, với giọng điệu đầy vẻ hăm dọa rằng chúng đã bắt được cộng sản treo cờ. Khi đưa ông Trần Diện đến khu vực chợ Thu Bồn, chúng trói quặt hai khuỷu tay ông ra đằng sau.

Cùng với việc bắt dân canh gác, tri huyện Duy Xuyên giao cho bà Kiểm, một người giàu có trong làng, phải gói bánh tét cho dân canh ăn để gác... Và, do có chuyện bắt ông Trần Diện, nên trong dân gian đã xuất hiện bài vè nay nhiều người còn thuộc: “… đứng giữa bụi hè/ Đút gậy dây choàng xách mỏ tre/ Quá túi (tối, từ địa phương - NV) ai đi phải đón lại/ Đầu hôm kẻ lạ phải ngừng xe/ Quan quân chẳng biết hồi nào tới/ Hương kiểm dặn rằng đánh mõ nghe/ Bụng đói thức khuya con mắt mệt/ Nhờ ơn bà Kiểm đãi ba bữa no kè”.

PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT

 

;
.
.
.
.
.