.

Người mở đèo Le

.

Nguyễn Đình Hiến không những là một vị quan thanh liêm chính trực mà còn là một người có tư tưởng đổi mới, ham học hỏi kỹ thuật phương Tây để canh tân đất nước. Khi về an dưỡng tại quê nhà, ông đã đứng ra vận động nhân sĩ và nhân dân góp công, góp của khai mở con đường đèo Le để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế cho vùng đất Nông Sơn lúc bấy giờ...

Chân dung Phó bảng Nguyễn Đình Hiến. (Ảnh: AT)

Nguyễn Đình Hiến (1872 - 1947) tự Dực Phu, hiệu Ấn Nam, thụy Mạnh Khả, xuất thân trong một gia đình khoa bảng tại làng Lộc Đông, tổng Trung Lộc (nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Năm Thành Thái thứ bảy (1895), ông được vào học trường Đốc Quảng Nam. Năm 1897, ông đỗ Tú tài, năm 1900 đỗ Cử nhân, năm 1901 đỗ Phó bảng.

Sau khi vinh quy, ông được triều đình cử giữ chức Hàn lâm viện kiểm thảo. Đầu năm 1906, ông được cử sang Pháp học chính trị và phong tục và đã viết cuốn “Tây sai kỹ lãm” trình vua Thành Thái. Ở Pháp về, ông được bổ nhiệm Đồng tri phủ lãnh chức Tri huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Từ đây, bước hoạn lộ của ông ngày một hanh thông qua nhiều chức vụ, đến năm 1923 ông thăng Tổng đốc Bình Phú (Bình Định, Phú Yên). Đến năm 1927 thì ông về hưu với hàm Hiệp tá Đại học sĩ, ở tại ấp Bình An, gần dốc Nam Giao (Huế) một thời gian...

Đến năm 1935 thì ông trở về nguyên quán ở làng Lộc Đông di dưỡng tuổi già. Thơ văn ông để lại tuy không nhiều, nhưng đó là những dấu ấn của văn học Việt Nam. Tiêu biểu nhất là bài Bang Sơn động (Vịnh núi Trà Bang, ở Ninh Thuận), có thể liệt vào hàng những bài thơ hay.

Riêng với quê nhà, ông đã có những cống hiến to lớn góp phần làm thay đổi bộ mặt vùng quê hoang vắng còn nhiều khó khăn, cách trở, mà điển hình nhất là việc khai mở con đường qua đèo Le.

Trước đây vùng Lộc Đông bốn bề rừng rậm núi cao, mọi sự giao lưu với bên ngoài đều qua đường thủy xuôi dòng sông Thu Bồn, còn đường bộ thì hầu như không có. Do nhu cầu đi lại ngày một nhiều, người dân đã băng rừng, vượt núi, dần thành một lối mòn nhỏ băng qua núi, gọi là đèo Le. [Còn vì sao có tên gọi là đèo Le và tên gọi này ra đời từ khi nào thì có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng đèo Le là cách đọc trại tên của một người Pháp là De Larie đã có công khám phá và khai thông đèo. Có người cho rằng tên gọi đèo Le xuất phát từ việc người dân đè núi đá cây rừng mà leo, leo mệt quá le lưỡi nên đặt là đèo Le...].

Theo nội dung tấm bia chính được tìm thấy tại đèo Le (do chính tay Nguyễn Đình Hiến cẩn soạn bằng chữ Hán) thì sự hiểm trở, khó đi lại của đèo Le lúc bấy giờ được miêu tả như sau: “Con đường đèo Le Quế Sơn thật là hiểm trở, về phía đông có hai tổng Trung Châu là: Thuận Mỹ, An Phú, tiếp về phía tây là tổng Trung Lộc miền cao, thông với đường sông Thu Bồn và giáp miền thượng man, chung quanh đều là núi cao tạo thành một bức tường thành trời định, trước đây nguời qua lại tổng Trung Lộc đều than thở đường hiểm núi cao, đá chởm, đất bùn...”.

Cũng theo nội dung tấm bia này thì vào một ngày mùa Đông năm Bính Tý (1936), Nguyễn Đình Hiến đã diện kiến với Tổng đốc Quảng Nam lúc bấy giờ là Nguyễn Đình Khôi khi ông này đi kinh lý các tổng miền thượng du và đề xuất với quan Tổng đốc về việc mở con đường băng qua đèo Le kéo dài từ đông sang tây, rộng 3m và dài khoảng 7km... Sau đó, Nguyễn Đình Hiến đứng ra thành lập ban vận động lạc quyên để khai mở con đường đèo Le gồm Tú tài Lâm Xuân Quế ở xã Phước Bình, Cửu phẩm Nguyễn Đình Dương ở xã Lộc Đông... Các ông đã đi vận động nhân dân trong tổng lạc quyên được số bạc là 4.600 đồng lẻ, đồng thời cũng trích số bạc tư ích ở các tổng và thu bạc hội chợ rồi giao cho quan lục lộ cùng với ông tri huyện Nguyễn Trọng Thuần đốc thúc tiến hành.

Việc khai mở đèo Le đã được Nguyễn Đình Hiến ghi rõ trong tấm bia chính: “Mùa hạ năm Đinh Sửu (1937) khởi công khai phá rừng rậm, nào là bắn đá, đào lấp hố sâu, bắt cầu xây cống vất vả suốt hai mùa mưa, đến mùa hè năm Kỷ Mẹo (1939). Suốt hai năm tròn dầm mưa dãi nắng, con đường đèo Le mới được hoàn thành. Ngày khánh thành (tại cây số 26) có quan tổng đốc và quan công sứ đến dự và chúc cho nhân dân tổng Trung Lộc, từ nay đã có đường, xe thông từ đông sang tây, các thành phần sĩ nông công thương có cơ phát triển thuận lợi”.

Sau khi con đường đèo Le được hoàn thành, vào năm Canh Thìn (1940), Nguyễn Đình Hiến đã cẩn soạn bốn tấm bia dựng tại đỉnh đèo. Nội dung tấm bia chính chủ yếu ghi lại công tích mở đường đèo Le, các tấm còn lại ghi danh sách các vị hảo tâm góp tiền bạc để mở đường. Khi chuẩn bị dựng bia thì Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, nên phải đưa các tấm bia này đi giấu, hiện nay mới chỉ tìm được ba tấm.

AN TRƯỜNG

 

 

;
.
.
.
.
.