.

Người xưa với việc trồng cây

Việt Nam nằm ở một vùng đất nắng lắm, mưa nhiều - rất thuận tiện cho công việc cấy cày, gặt hái, nhưng không năm nào là không có bão to, lụt lớn đe dọa, và gây tai hại cho công việc làm ăn, cho cuộc sống của con người.

Chính vì lẽ ấy mà từ hàng ngàn năm nay tổ tiên, ông bà ta xưa rất tôn trọng tự nhiên, rất có ý thức bảo vệ núi rừng, sông biển, vun trồng vườn tược, cây cối quanh xóm, quanh làng… “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn” (tạm hiểu  mùa xuân vạn vật sinh sôi, nảy nở, mùa hạ trưởng thành, mùa thu dừng lại, mùa đông ẩn giấu). Nhận rõ quy luật ấy của tự nhiên, của muôn loài nên các cấp chính quyền và cư dân các làng xã, phường phố từ bao đời nay đã có nhiều việc làm tích cực để cho màu xanh của rừng núi, sông biển, làng quê luôn tươi thắm, yên bình.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, cách đây gần 9 thế kỷ, vào năm 1126, vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) đã xuống chiếu “Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây”. Vua Minh Mạng (1820 - 1840) tháng 3 năm 1830 thì truyền chỉ cho các quan trị nhậm từ Nghệ An trở ra hãy khuyên bảo, động viên dân chúng tích cực trồng cây: “…Các quan sở tại phải sức khắp cho quân và dân ở trong thành, ở hai bên đường cái quan thì trồng cây mít, ở đê ven sông thì trồng cây liễu và phải thường xuyên vun bón, và bảo vệ cho cây được lớn…” (Theo Đại Nam thực lục chính biên - tập 10 - NXB KHXH – 1963 - trang 194-195)
Cũng chính vua Minh Mạng, 4 năm sau đó

(mùa xuân năm 1834), trong Lễ tế giao đã ra sắc chỉ cho các hoàng tử theo hầu đạo ngũ mỗi người phải trồng 1 cây thông dọc theo ngự đạo thuộc trai cung trong khu vực Đàn Nam giao (Huế). Công việc này, các năm về sau vẫn được duy trì và thực hiện rất hiệu quả. Nhiều vị trong hoàng tộc, trong giới quan lại cao cấp của vương triều Nguyễn cũng rất nhiệt tình tham gia. Nhờ vậy, ngày nay, trong và quanh khu Di tích Đàn Nam giao Huế rợp bóng cây xanh và cảnh quan nơi đây trở nên đẹp đẽ, mát mẻ, thoáng đãng và gần gũi với con người vô cùng.

Với cấp quốc gia thì như vậy. Ở cấp làng xã, phường phố, công việc trồng cây, bảo vệ cây và cảnh quan thiên nhiên lại càng được chú trọng. Điều này đã ăn sâu vào ý thức của mọi người dân và hơn thế nữa, đã được phát triển, được nâng lên thành thuần phong mỹ tục, thành lệ làng của nhiều dân tộc, nhiều địa phương.

Người xưa có câu:
Mồng 1 tết nhà
Mồng 3 tết chuồng
Mồng 4 ra vườn tết cây.

Các dân tộc Vân Kiều, Cơtu, Taôih sống ở rừng núi dọc dải Trường Sơn từ Quảng Trị trở vào rất coi trọng việc bảo vệ rừng, dù trước đây nghề sống chính của họ là gieo trồng lúa, ngô trên nương rẫy và săn bắt, hái lượm. Dân các buôn làng phân rừng thành 3 loại: Rừng thiêng (được xem là nơi cư ngụ của thần linh, nơi có nhiều cây cao, bóng cả), rừng đầu nguồn (nơi giàu cây cối, muông thú) và rừng nghèo. Hai loại rừng trên không được xâm phạm, chỉ được đốt cây, làm rẫy ở rừng loại 3, nơi ít cây, ít thú. Một quy định khác: Chỉ được chặt cây để làm nhà, đóng thuyền, đóng quan tài và khi chặt phải đến xin phép buôn làng, chủ làng có đồng ý mới được làm. Không được chặt gỗ để làm hàng hóa, buôn bán.

Người vùng đồng bằng thì trồng tre quanh làng, trồng đa, trồng đề ở nơi đình miếu, chùa chiền; người sống ven sông, ven biển trồng các loại cây ngăn nước, chắn gió, chắn cát (sú, vẹt, bần, đước, phi lao, dứa dại…). Những ai có dịp đi dọc bờ biển miền Trung, hẳn sẽ thấy bớt đi nhiều cái cảm giác bức bối, nóng nảy của mùa hè bỏng rát nếu như được núp bóng dưới rặng trâm bầu, hoặc mắc võng giữa rừng phi lao ngút ngàn. Có được những rặng cây, những khu rừng xanh mát đó là do dân các làng quê rất coi trọng việc trồng thêm cây cối mỗi năm và nghiêm cấm việc tàn phá cây cối. Điều này được ghi rõ trong Hương ước của nhiều làng. Xin được trích dẫn một vài ví dụ:

Hương ước làng Cảnh Dương (Quảng Bình) soạn năm Cảnh Hưng thứ 28 (1768) điều 13 ghi: “Chỗ Huyền Vũ (một rừng cây nằm ở động cát sau làng) là để trấn cho dân cư… Xã trưởng, khán thủ thấy người nào lén chặt phá cây cối thì bắt về giao nộp tại đình, làng theo khoán mà phạt heo 1 con, giá tiền xưa 1 quan 5 mạch…”.

Hương ước làng Dương Nỗ (Thừa Thiên-Huế) chép: “Từ nay về sau, các bờ tre trong nội xã đều là để ngăn che, không được bẻ măng, nếu ai phạm thì thu tiền phạt 1 quan, 1 mạch, tái phạm bị đánh 30 roi, thưởng cho người bắt được (kẻ vi phạm) 1 quan”. (*)

Xưa cũng như nay, người Việt Nam rất coi trọng thế giới tự nhiên. Họ suy tôn sông biển, núi rừng, cây cối thành thần thánh. Thiên nhiên là bầu bạn của con người. Đồi núi, vườn tược, ruộng đồng… là nơi để cây cối tồn tại, nảy lộc đâm chồi, khai hoa, kết trái. Con người sống nhờ vào tự nhiên, mang ơn tự nhiên. Vì vậy, vun trồng và bảo vệ cây cối bao giờ cũng vậy, không chỉ là nghĩa vụ, là trách nhiệm mà còn là tình cảm bao la, sâu sắc, là lương tâm cao cả của con người dành cho những người bạn thân yêu và cho chính cộng đồng của mình.

Trần Hoàng

(*) Hai bản Hương ước này nguyên văn bằng chữ Hán - Trần Đại Vinh (TP. Huế) dịch.

;
.
.
.
.
.