.

Về cuốn sổ "Học tập" ở Bảo tàng Đà Nẵng

.
Bảo tàng Đà Nẵng hiện lưu giữ cuốn sổ “Học tập” của ông Phạm Kiều Đa, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật thành phố Đà Nẵng, nguyên quyền Quận đội trưởng quận Nhứt Đà Nẵng, ghi lại các phương pháp huấn luyện quân sự như cách đánh địch, thao tác sử dụng các loại mìn, lựu đạn... trong những năm kháng chiến chống Mỹ (1962 - 1975).

Mô tả ảnh.
Một trang ghi chép về cách đánh sân bay và máy bay của địch với hình minh họa. (Ảnh: L.H)
 
Cuối năm 1969, ông Đa được cử đi đào tạo lớp cán bộ tiểu đoàn mũi nhọn và được điều động về chỉ huy biệt động thành Đà Nẵng. Ban đầu, ông là trợ lý tác chiến của đơn vị, sau là cánh trưởng Cánh Đông (gồm các xã phía đông Đà Nẵng, trong đó có xã Hòa Xuân, nay là phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, quê ông). Xã Hòa Xuân nhỏ bé nằm kẹp giữa 3 con sông và quốc lộ 1A, trong hồi ký có tựa là “Lòng dân” của mình, ông gọi nơi này là cái “yết hầu” của căn cứ liên hợp quân sự khổng lồ của Mỹ ở Đà Nẵng.

Lúc đó, biệt động thành từ Hòa Xuân mấy lần tìm cách vượt sông Cẩm Lệ qua Hòa Cường để đánh vào sân bay Đà Nẵng, nhưng lần nào cũng thất bại, bởi luôn có một chiếc bo bo của địch chạy dọc trên sông. Ông đã bỏ ra gần tháng trời nghiên cứu thực địa và vượt sông an toàn. Nhận ra một “quy luật” là cứ sau khoảng từ 12 đến 15 phút thì bo bo địch xuất hiện trở lại trên sông một lần, ông đi đến kết luận: Muốn không bị địch phát hiện, phải vượt sông trong thời gian tối đa là 10 phút.

Cọ xát với thực tế, ông đúc kết được nhiều kinh nghiệm tác chiến nội thành. Đầu tháng 6 năm 1973, khi đang là Quận đội phó quận Nhứt, ông được tham dự lớp tập huấn do Quân khu 5 tổ chức. Lúc đó, chưa có tài liệu chính thức về biệt động thành, ông tham gia nội dung tài liệu bằng những kinh nghiệm đúc kết từ thực tế hoạt động biệt động thành của mình.

Nhiều nội dung trong tài liệu tập huấn ngày đó lý luận là của Quân khu, thực tiễn là do ông đóng góp. Tất cả được ông ghi chép cẩn thận trong một cuốn sổ khổ 14x12cm, dày hơn 100 trang, trang đầu tiên ghi hai chữ “Học tập”, được ghép lại bằng nhiều loại giấy, một số trang hiện đã ố vàng. Bài đầu tiên ghi vào ngày 7-6-1973 là “Chủ nghĩa thực dân mới”. Tiếp đó, nhiều bài có tính cách lý luận như: “Tình hình đặc điểm các giai cấp xã hội miền Nam”; “Giai cấp và quan điểm đấu tranh giai cấp”; “Công tác bảo vệ”, “Chính sách hòa hợp dân tộc”… Đáng chú ý nhất là những bài về thực tế tác chiến có hình minh họa rõ ràng do ông tự vẽ như “Bình địa, ống nhòm, địa bàn, bản đồ”; “Ký hiệu quân đội”; “Mìn các loại”; “Cách đánh sân bay và máy bay của địch”...

Đây thật là cuốn “cẩm nang”, bởi nó được dùng để làm tài liệu hướng dẫn cho các chiến sĩ biệt động thành Đà Nẵng một thời.

LÊ HUỲNH
;
.
.
.
.
.