Tựa sách mới nhất của NXB Hội Nhà văn Việt Nam ra mắt vào dịp kỷ niệm 4 năm Ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Xuân mang tên “Nguyễn Văn Xuân – sức sống văn hóa xứ Quảng” (ảnh). Sách dày trên 500 trang (khổ 17 x 24cm) gồm hơn 100 bài viết chọn lọc in từ các báo, tạp chí trước và sau 1975, trong đó có cả những bản thảo lần đầu công bố của ông.
Trước 1975, Nguyễn Văn Xuân là một trong những tác giả trụ cột có tên trong Nhóm biên soạn các tạp chí nghiên cứu lý luận tại Sài Gòn như: Bách khoa, Sử Địa, Văn học... Sau ngày hòa bình, ông vẫn tiếp tục thường xuyên gắn bó với hầu hết các tờ báo quen thuộc của cả nước. Đề tài báo chí của ông luôn phong phú, đa dạng, nhưng dĩ nhiên nổi trội nhất là những bài viết sinh động, dí dỏm gắn liền với mảnh đất và con người Quảng Nam. Đọc lại nhiều bài viết của Nguyễn Văn Xuân, tôi càng nhận ra rõ hơn: Ông viết cũng thoải mái giống như ông kể chuyện. Giọng điệu của ông bao giờ cũng đậm đặc “chất Quảng” không nhầm lẫn một ai!
Cuối tháng Chạp, với dân làm báo, và nhất là với nhà văn Nguyễn Văn Xuân, những ngày chờ Tết như vậy còn có nghĩa là chờ báo Tết. Nhìn thấy báo Tết là nhìn thấy mùa xuân. Trong một năm, hạnh phúc nhất với ông có lẽ là phút giây này. Trên bờ tường xẩm màu của gian nhà nhỏ hẹp, bộn bề sách báo ngổn ngang bắt đầu xuất hiện những tờ lịch sang trọng. Rượu tây, bánh mứt của thân hữu, học trò cũ... đem đến giăng đầy bàn. Đáng quý hơn nữa, phần lớn các tờ báo từ Sài Gòn, Hà Nội đều nhanh chóng chuyển nhuận bút đến cho ông kịp thời. Thường ngoài thù lao bài viết, dịp này họ gửi kèm theo chút đỉnh để ông tiêu Tết. Ông nói, sau mùa làm báo Tết như vậy, ông có thể trang trải lo việc gia đình được vài tháng.
Kể chuyện về lần đầu tiên đi học, ông có bài viết “Tôi cũng có ngày tựu trường ư?”. Theo ông, lần đầu đi học cũng là lần đầu ông được tới thị trấn Vĩnh Điện để theo đường thủy ra Đà Nẵng. Cái thuở ban đầu của ông nhìn về Đà Nẵng thật độc đáo, không dễ tìm được ở trang viết nơi đâu: “Lạ lùng nhất như trong một giấc mơ là trên con đường sắt đổ tới một loại xe, không phải xe lửa, rất thấp, có chất hàng hóa và chả rõ có ai lái hay không mà cứ ngang nhiên đi tới. Tôi chưa phải dừng chân hẳn ở thành phố sang trọng ồn ào này mà còn phải lên xe lửa qua những đoạn đường dài để đến ga Lệ Sơn...”.
Kể về đêm 30 Tết, ông có câu chuyện “Nợ và nợ đòi đêm 30”. Chắc ai từng có một thuở hàn vi cũng đều thấm thía. Ông nói rằng: Tất cả sự ồn ào, hỗn tạp, đánh mắng, chửi la làm rộn xóm làng đều tụ vào cái đêm cuối năm này. Bởi vì, xưa kia dân ta đa số là nông dân nghèo, hoặc buôn bán nhỏ, đồng tiền khó kiếm phải mua chịu mua đựng, phải vay, phải nợ suốt đời. Thế nhưng, ngày Tết cũng phải lo cho con tấm áo mới để đỡ thẹn với đời, cúng giỗ phải có miếng thịt, thẻ hương... Do vậy, thê thảm nhất là nợ đòi sau lưng vào cuối tháng Chạp... Đòi không được thì dùng bạo lực, chửi bới, nắm áo, kéo quần... Vì vào đêm 30 mà không đòi được món nợ thì cho tới đầu tháng giêng năm sau, không mong gì đòi được nợ. Ông cũng nói rằng, cao điểm của câu chuyện này là Chửi vào đêm 30 Tết mà trước kia có một linh mục làm luận án tiến sĩ ở hải ngoại và bản thân ông cũng từng viết một tiểu luận tên “Chửi” in trên tạp chí Sài Gòn trước 1975.
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân (ngồi, thứ 2 từ phải sang) cùng thân hữu tại nhà riêng (năm 2006). |
Về văn hóa ẩm thực truyền thống Quảng Nam, chắc không nhiều người nắm rành rọt như Nguyễn Văn Xuân. Theo ông, người Quảng Nam có yêu cầu cao về việc ăn no. Ăn cơm no chưa đủ để làm việc nặng nên các món ăn đều phải mặn. Thậm chí, sau bữa ăn no nê, họ có thể bưng chén mắm lên húp ngon lành, rồi cắn ngang một trái ớt xanh cho đã đời. Quảng Nam và Huế không chỉ khác nhau về bữa ăn mà còn khác nhau về ẩm thực. Người Quảng Nam không chuộng ăn chè, mà ăn cháo ngọt, chẳng hạn loại cháo nếp bỏ thêm ít muối, khoai đặc sệt thêm chút gừng, nấu ngọt bằng loại đường bát. Việc ăn ngọt do có sự ảnh hưởng của người Trung Hoa tại Hội An. Ông cũng cho rằng, Hội An nổi tiếng vì nhờ các loại bánh, bánh ngon là do chất liệu, đường, bột và kỹ thuật chế biến.
Các mặt hàng này đều có nguồn gốc Việt Nam. Bánh có nguồn gốc Trung Hoa xưa kia chỉ lưu lại một ít mà nổi tiếng nhất là bánh quai vạc. Ngày Tết, bánh khuôn khổ hay bảy lửa, nay có tên mới là bánh khô mè được yêu chuộng nhất trong các loại chính thống: Tét, Tổ, Nổ, In. Người Quảng Nam có truyền thống ăn uống không phải bắt đầu từ khi đất Bắc đưa lưu dân vào, mà từ thời Chiêm Thành đóng kinh đô tại đây. Sau đó mỗi ngày một phát triển. Nó được Hoa kiều ở Hội An, người Pháp ở Đà Nẵng hỗ trợ; sau đó kinh kỳ Huế đóng góp, Sài Gòn mở mang cho tình yêu ẩm thực mới tạo ra được vẻ đa dạng, phong phú như ta thấy ngày nay...
Theo nhóm thân hữu tổ chức sưu tập ấn hành tập sách “Nguyễn Văn Xuân – sức sống văn hóa xứ Quảng”, công trình này đã được ấp ủ từ hơn 2 năm trước, từ ý tưởng và tâm nguyện của nhà báo Nguyễn Hữu Hương – người vừa qua đời hồi tháng 9 năm ngoái. Ngoài hơn một trăm tác phẩm báo chí của Nguyễn Văn Xuân còn có một số bài viết của các nhà văn, nhà báo quen thuộc có nhiều kỷ niệm gắn bó với ông. Hy vọng, tập sách sẽ góp phần giúp bạn đọc có dịp tìm hiểu rõ hơn về nhà văn hóa đặc trưng của xứ Quảng.
TRẦN TRUNG SÁNG