.
Nhân ngày giỗ nhà văn Nguyễn Văn Xuân (4-7-2007­_4-7-2011)

Thầy Xuân - Những gì tôi biết

.

Thấm thoát đã 4 năm tròn nhà văn - nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân về với ông bà, rời bỏ văn đàn. Nhưng trong chừng ấy thời gian, chúng tôi vẫn thường nhắc đến ông, nhắc về những kỷ niệm cùng ông với nhiều suy nghiệm.

Mô tả ảnh.
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân

Thầy Xuân mê cái đẹp phụ nữ

 “Đàn ông mà không mê gái thì chết trớt đi cho rồi!”, đó là câu ông hay nói vui với bọn trẻ chúng tôi. Nhưng ông mê gái không phải theo cách như ta thường hiểu. Ông mê cái đẹp mà tạo hóa ban cho người phụ nữ thì đúng hơn!

Lúc còn cái Trung tâm Thông tin ở góc đường Hùng Vương - Yên Bái, nơi thường tổ chức các triển lãm mỹ thuật đầu tiên ở Đà Nẵng những năm trước đổi mới, thầy Xuân vẫn là người có mặt đều đặn hơn tất cả. Khi phòng tranh đóng cửa, chúng tôi thường mua rượu về nhậu và tất nhiên có mặt một vài cô gái đẹp. Thầy bao giờ cũng thích ngồi với một cô trong số đó và xưng hô anh em rất điệu. Rồi thế nào ông cũng cầm tay cô gái, cũng hôn lên trán cô trước khi đứng dậy đọc thơ. Và “Nhanh với chứ, vội vàng lên với chứ/Em, em ơi tình non đã già rồi...” vẫn là bài ruột mỗi lần “thi sĩ Xuân” đọc thơ. Đặc biệt đến 2 câu “Hái một mùa hoa lá thuở măng tơ, Đốt muôn nến sánh mặt trời chói lọi...” bao giờ cũng được ông đứng lên đọc với một âm sắc rất cao theo kiểu riêng của ông...

Thỉnh thoảng, có lúc “bọn trẻ” mời ông đi hát karaoke, ông vẫn rất tích cực nhưng đặt điều kiện: “Cứ để ông được hút thuốc lá đen hiệu Đà Lạt (thường hút đến hơn 3 gói mỗi ngày) và phải có... một em trẻ đẹp ngồi bên!”. Khi bọn tôi hát, ông cũng chỉ cầm tay và ngắm nhìn say sưa cô gái, như vừa cảm ơn tạo hóa đã sinh ra người nữ cho cuộc đời này vừa tiếc tuổi... Xuân của mình không còn nữa! Thế nhưng qua những lần như vậy, ông phấn chấn hẳn ra và sau đó ở lỳ trong phòng viết, đến vài ba ngày để làm việc.

Và tôi chợt nhớ đến những trang viết của ông về phụ nữ: “...Bà ta có đẹp không? Tôi không hiểu song có điều chắc chắn là bà đẹp hơn tất cả những người đàn bà tôi gặp quanh bà. Và tự nhiên nhìn con người cao lớn, mập mạp, hai má căng ra và đỏ hồng dưới phấn son tươi thắm, tôi bất giác nghĩ: Đây là một người chỉ đẹp lúc về già”. (Bão Rừng) hay: “Nàng ngủ hay thức? Đôi mắt nàng vẫn mở trân trân thì đúng là nàng thức, nhưng cái vẻ bất động tuyệt đối kia lại chính là trạng thái của người đang ngủ. Mắt nàng ráo khô mà đỏ khé cứ giương vào trong khoảng không…” (Rồi máu lên hương-Dịch Cát). Còn ở Kỳ nữ họ Tống: “...người ta chống bà về tội ác nhưng không ai chống sắc đẹp của bà”; “Bây giờ đột nhiên nàng rũ bỏ trần gian để đi về cô quạnh, tôi mới biết ân tình của tôi với nàng nặng biết chừng nào...”, thì vẻ đẹp nữ phái trong văn của ông đã trở thành khái niệm mang tính tượng trưng hơn là thực thể, mặc dù ông thiên về tả chân.

 Tóm lại, chuyện thầy Xuân mê gái ngoài đời và phản ảnh vẻ đẹp ấy vào trang sách, theo tôi, là một quá trình “trừu tượng hóa” hay “khái quái hóa” của một bậc anh hào xưa nay hiếm.

Thầy Xuân viết truyện... vụ án

Sinh thời theo ông kể, ông có viết cuốn “Vụ án Truyện Kiều” từ những năm 60 thế kỷ trước, nhưng đã thất lạc khi đưa cho một nhà xuất bản ở Sài Gòn.

Kỳ nữ họ Tống thì là một tiểu thuyết lịch sử, như ông viết ở chương đầu: “Chúa hơi nhẫn tâm nhưng cũng là hành động của bậc đại trí. Theo tôi hiểu, chúa sợ cái gương của chúa Thượng với Tống Thị tiếp diễn... Ôi, đàn bà!”. Tiểu thuyết lịch sử nhưng là mô tả “sự va đập của các tính cách” nhân vật  trong vụ án liên quan đến một người đàn bà cụ thể. “Ôi, đàn bà!” mà ông cảnh báo từ đầu truyện đã cho thấy đó còn mang tính thời sự lâu dài đối với bất cứ ai, khi để chuyện ái tình xen vào công việc, dù đó là Đông, Tây hay kim, cổ.
Tôi còn giữ được hai trang viết tay của thầy Xuân về “vụ án” Lệ Chi Viên mà ông viết vào năm 1986 như báu vật. Tuy bản thảo chỉ còn ít, nhưng có thể thấy dù viết chuyện án trong lịch sử, Nguyễn Văn Xuân bao giờ cũng muốn người đọc luận cổ suy kim. Và đó chính là sức mạnh bất di bất dịch trong ngòi bút của ông. Ông viết:
 
...Trong triều đình, cung viện hổ lốn ấy, cạnh ông vua ham mê tửu sắc, hiếu sát ấy lại thấy xuất hiện bà Lễ nghi học sĩ mơn mởn đào tơ hầu bên vua, thì người ta hiểu gì về chồng bà? Tất nhiên Nguyễn Trãi biết có bao nhiêu mũi tên độc địa nhắm bắn ông. Vậy hành động của Nguyễn Trãi tất phải có một ý nghĩa nào đó: hoặc ông muốn tự bảo vệ hoặc ông muốn giúp Thái Tôn - ông vua chỉ muốn đàn bà đẹp bên mình, từ chối hết các mẫu sư, các quan giảng sách già nua - qua sức hấp dẫn của Nguyễn Thị Lộ để chấn chỉnh triều cương, cung viện, hoặc ông muốn mưu đồ đại sự, cụ thể là việc xếp đặt người kế vị (Lê) Thái Tôn để cứu dân giúp nước. Nghĩa là ông dùng mỹ nhân kế để đạt được ba mục đích ấy chăng?
 
Và thầy Xuân giải thích bằng những suy luận chặt chẽ:

Những nghi vấn này gợi ra là do sự có mặt của bà Nguyễn Thị Lộ đã giải quyết được một thảm án: Tiệp Dư Ngô Thị (Ngọc) Dao, một trong ba bà vợ được Thái Tôn sủng ái có thai, rồi có tin đồn bà mộng thấy “Kim tiên đồng tử” giáng trần, tất sẽ sinh quý tử. Nguyễn Thị Anh bấy giờ được tấn phong thần phi, con là Bang Cơ được định ngôi thái tử, đâm ra lo sợ. Bà phải hết sức chật vật mới cướp được địa vị ấy sau khi hãm hại thần phi Dương Thị Bí để truất phế ngôi thái tử của Nghi Dân xuống làm Lạng Sơn vương, cha Thị Bí vì vụ này phải bị giết. Bây giờ trước một địch thủ đáng gờm, sau lưng có thế lực của cung nữ Ngô Thị Xuân là chị ruột, bên cạnh vua có bà Học sĩ đẹp được vua tin dùng, ngoài ra lại có sự ủng hộ của vị đại thần được trọng vọng, Nguyễn Thị Anh đâm ra lo sợ là điều tất nhiên. Bà liền sàm tấu với vua là Ngô Thị Dao vốn ở trong phe đảng của Dương Thị Bí, tội đáng bị voi giày. Nguyễn Thị Lộ ra sức can thiệp và vua đã nghe lời, cho phép bà mang Ngô Thị Dao ra ở chùa Huy Vân...     

Câu hỏi được đặt ra: Tại sao vợ chồng Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ lại chăm vào việc cứu giúp Ngô Thị Dao để nổ ra mối thù không đội trời chung với thế lực đang lên? Nguyễn Văn Xuân đã tìm thấy câu trả lời cho vụ án: “Giúp Ngô Thị Dao, ngoài tình bạn cha bà là Ngô Từ khi ở Lỗi Giang (theo gia phả họ Ngô ở huyện Nghi Xuân, Thanh Hóa),  theo ông, còn là bởi Nguyễn Trãi có niềm hy vọng sẽ trực tiếp nuôi dạy thái tử có tài đức mà sau này là vua Lê Thánh Tôn, nhằm cứu một triều đại đang dần đi vào con đường tha hóa về chính trị và đạo đức...

Nhà văn Nguyên Ngọc khi đánh giá về thầy Xuân đã cho rằng ông là một cây bút tài năng hiếm có. Khi ông viết nghiên cứu thì tạo được sự hấp dẫn như viết tiểu thuyết; còn khi sáng tác, dù hư cấu thì lại rất chặt chẽ và khoa học như một nhà nghiên cứu. Là một người yêu quý ông như thầy, tôi còn muốn nói rằng, dù là ông viết về những nghi án trong lịch sử, ông cũng luôn tiếp cận những tư liệu khả tín, dựng truyện hấp dẫn nhưng vẫn đưa ra các lý giải xác thực. Chính cách làm việc đó, những nghiên cứu của ông tuy về một thời xa nào đó cũng gợi ra một ý nghĩa thời sự bổ ích cho người đọc.
 
TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG
;
.
.
.
.
.