.

Jackson Pollock và những lối vẽ riêng

.

Michael Jackson Pollock sinh vào đầu năm 1912 ở Cody, Wyoming, Mỹ và mất vào mùa thu năm 1956, thời điểm hưng thịnh của chủ nghĩa trừu tượng đối với nghệ thuật thế giới. Pollock là họa sĩ Mỹ có uy thế, là hình ảnh chủ chốt trong chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng. Một trong nhiều  bức tranh của Pollock đã tạo nên danh tiếng cho ông với bút pháp kỳ lạ vào thời đó: Vẽ bằng những vệt màu sơn rơi rớt. Pollock là con trai thứ năm và nhỏ nhất nhà. Vào năm lên một, ông theo gia đình  chuyển tới Arizona rồi đến Chico, California. Cha của ông xuất xứ là một nông dân, về sau,  ông trở thành một thanh tra đất cho chính phủ. Thời niên thiếu, Jackson Pollock thường đi với cha mình vào những dịp khảo sát đất, ông được tiếp xúc với người dân Mỹ và nghệ thuật bản địa mà sau này sẽ ảnh hưởng đến công việc của ông. Những năm kế tiếp sau, Pollock theo anh trai cả Charles đến thành phố New York và cư ngụ tại đó.

Nghệ sĩ Lee Krasner và Jackson Pollock (năm 1949).
Nghệ sĩ Lee Krasner và Jackson Pollock (năm 1949).

Vào năm 1945, Pollock lập gia đình với nữ họa sĩ Lee Krasner, người phụ nữ trở thành sự ảnh hưởng quan trọng trong sự nghiệp và di sản của Pollock. Họ ở chung trong một căn nhà nhỏ - có một nhà kho cho Pollock vẽ, và một căn phòng trong nhà cho Lee để vẽ.

Ông bắt đầu nghiên cứu hội họa từ năm 1929 tại trường Liên kết sinh viên nghệ thuật ở New York dưới sự hướng dẫn điều hành của họa sĩ địa phương Thomas Hart Benton. Trong những năm 1930, học và thực hành ở trường này, Pollock dần dà chịu ảnh hưởng các họa sĩ chuyên vẽ tranh tường của Mexico như Orozco, Rivera, Siqueiros và từng bước “làm quen” với diện mạo của trường phái siêu thực. Từ 1938 đến 1942 ông làm việc cho Dự án nghệ thuật liên bang. Đến giữa những năm 1940, ông đã vẽ một cách hoàn toàn trừu tượng, và phong cách tung hứng, vung vẩy màu sơn lên tranh để tạo ra tác phẩm. Nhiều bức tranh với lối vẽ “vung màu tung tóe” ấy đã bất ngờ tạo nên tiếng tăm cho tác giả vào năm 1947. Thay vì sử dụng các giá vẽ truyền thống, ông dán vải bố vẽ tranh lên sàn hoặc tường nhà và tiếp đến cứ vung tóe sơn của mình lên trên bằng một vật dụng nào đó, có thể cây cọ vẽ lớn, ca nhựa múc nước, bất kỳ. Đôi khi, thay vì dùng bút vẽ mềm để quét sơn ông dùng que gậy, dao, những vật dụng ông tự tạo lấy cho lối vẽ riêng của mình, ông phết lên mặt vải tranh, có khi thì sử dụng màu màu sơn có khi thì bằng chất liệu phụ gia khác như cát thủy tinh.  

Tranh sơn dầu của Pollock.
Tranh sơn dầu của Pollock.

Trong vòng 3 năm từ 1947-1950, Jackson Pollock rất nổi tiếng với các tác phẩm hội họa kỳ lạ từ kích thước đến cách vẽ. Ở bức như Nhịp điệu mùa thu (số 30), Pollock sáng tạo tác phẩm bằng các hợp màu từ nâu, đen và màu trắng rất cơ bản. Trong một bài viết của mình, ông cho biết là cố gắng để thể hiện cảm giác ở đây bằng cách chuyển động các hình thể thay vì truyền đạt thông qua màu sắc.

Từ năm 1950 đến cuối của cuộc đời mình, Jackson ít vẽ, ông tìm vui trong hơi men và bấy giờ rượu đã hoàn toàn nắm quyền kiểm soát. Rồi lại có tình nhân. Người vợ đành chia tay “Họa sĩ thiên tài” để đến châu Âu. Trong đêm xảy ra tai nạn xe hơi vào ngày 11-8-1956, Pollck lái xe rời khỏi quán bar về nhà sau khi đã say khướt. Ruth Klingman, tình nhân của ông, là người duy nhất sống sót trong vụ tai nạn. Jackson Pollock chết, thi hài ông được chôn cất tại nghĩa trang Green River gần Springs, nơi họ sống.

Pollock tạo dấu ấn đậm nét trong lịch sử nghệ thuật của Mỹ bằng cách trở thành nghệ sĩ theo phái trừu tượng đầu tiên. Pollock thụ hưởng được sự nổi tiếng… lẫn tai tiếng của mình khi đang sinh thời. Ông được xem như là một họa sĩ sống ẩn dật, có một cá tính hay thay đổi và hầu như suốt đời phải dằn vặt, vật lộn với chứng tật nghiện rượu. Ngay vào năm Pollock mất, người ta đã tổ chức một cuộc triển lãm để xưng tụng và tưởng nhớ về con người và sự nghiệp của ông tại Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại (MoMA) ở New York và đến năm 1967 cũng tại đây, tổ chức một cuộc triển lãm khác, lớn, toàn diện hơn về tác phẩm của ông. Gần đây hơn, vào năm 1998 và 1999, Jackson Pollock lại được vinh danh với các triển lãm quy mô lớn tại MoMA và The Tate ở London.

Khi được hỏi về kỹ thuật vẽ tranh của mình, ông nói: “Tôi thích đóng vải lên  bức tường hoặc sàn nhà. Trên sàn nhà, tôi thoải mái hơn. Tôi cảm thấy “gần” với tác phẩm hơn, với cách này tôi có thể đi bộ xung quanh nó, và làm việc từ bốn mặt, nghĩa là trong cùng bức tranh. Đối với các công cụ “đồ nghề” của mình, tôi tiếp tục sử dụng các thứ của riêng tôi, do tôi tạo ra như que gậy, dao, sơn nước lỏng, nhỏ giọt xuống hoặc trộn sơn với cát, kính vỡ, hoặc các chất nước lỏng khác”.

HOÀNG ĐẶNG

;
.
.
.
.
.