.

Hội đua ghe

.

Làng tôi ở ven sông Thu Bồn. Xưa có nhiều nơi thờ thần linh như miễu Âm hồn, lăng Ông để thờ cá ông, miễu ông Bùa, miễu thờ Thành hoàng, bà Chúa xứ, đình làng thờ các vị Tiền hiền… Gắn liền với những di tích ấy là các lễ hội hằng năm thường tổ chức vào dịp xuân hay thu tùy theo lệ, như lễ hội cầu ngư được tổ chức tại lăng Ông, lễ cầu an ở miễu Âm hồn, lễ hội cúng bến sông Thu Bồn để cúng tế những người chết bất đắc kỳ tử, các oan hồn vô danh, không nơi nương tựa, không có người giỗ cúng, những người chết nhưng mồ mả không ai chăm sóc khói hương. Thường mỗi lễ hội diễn ra hai ngày. Người lớn lo tất bật mọi thứ, còn đối với bọn trẻ con là dịp để tụ tập nhau xem phần lễ bái và chầu văn.

Đua thuyền trên sông Cổ Cò.                                                                                                               Ảnh: Minh Trí
Đua thuyền trên sông Cổ Cò.                                                                                    Ảnh: Minh Trí

Thích nhất là lễ cầu Ngư và nghinh Ông, cứ như là diễn kịch, người ta tái hiện cảnh sông nước trên cạn, cũng ghe, cũng chèo và những ngư dân bình thường hằng ngày trở thành diễn viên phường múa, hát theo bài văn cúng. Lũ con nít kéo nhau đến không thiếu một đứa nào, đứng dọc hai bên bờ sông Thu Bồn để cổ vũ cho đội ghe đua thôn nhà. Trong làng chia làm bốn thôn, mỗi thôn một đội. Giải đua ghe hằng năm tại làng nhân ngày lễ hội cầu Ngư, nghinh Ông là một nét văn hóa đặc sắc, thu hút phần đông người trong làng tham dự, nhất là đám trẻ con chúng tôi.

Ở hội đua ghe, ban đầu người ta dùng loại ghe đánh cá, ghe chở hàng lên nguồn, xuống biển để đua. Qua một thời gian thi thố trên sông, muốn chiến thắng đối thủ họ phải cải tiến dần chiếc ghe của mình.  Khi đua ghe đã trở thành lệ hằng năm, việc làm một chiếc ghe đua bảo đảm những yêu cầu kỹ thuật cao hơn như nhẹ, chắc, để có thể lướt nhanh hơn, rẽ nước tốt hơn, ngay cả cây dầm để bơi cũng được cải tiến. Trước khi đóng ghe hay lúc hạ thủy cũng phải cúng bái thần sông, lúc thi đấu xong mang về cất ở trong đình, trong chùa như một linh vật. Ghe đua được chia làm ba loại: ghe ngang, ghe lỡ, ghe tiến. Ghe ngang dài dưới 27 - 28 thước mộc, số lượng người ngồi trên ghe từ 12 - 15 người; ghe lỡ dài khoảng 28 - 35 thước mộc, số lượng người ngồi trên ghe từ 20 - 23 người; ghe tiến dài khoảng 40 - 45 thước mộc, số lượng người ngồi trên ghe từ 40 người.

Trên ghe đua, ngoài những con bơi, còn có người chèo đốc, người chèo xeo, sau cùng có người lái sọt chèo cạy phụ với chèo xeo. Mỗi đà ngang trên ghe có hai người. Người bơi dầm phách, phía trước mũi là phách nhứt, phách nhì, nếu phách nhứt rớt thì phách nhì lên thay. Thường ban tổ chức chọn hành trình đua từ đầu làng đến cuối làng, có lúc mời thêm các đội bên Xuyên Long, Xuyên Thọ (huyện Duy Xuyên), Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Châu… tham gia. Những lúc vặn tiêu có nhiều ghe bị lật nhào. Lúc ấy, các tay đua phải tự xử lý, nhanh chóng đưa ghe lên khỏi mặt nước để sớm đưa ghe trở lại đường đua. Ghe nào không còn sức bơi được thì bỏ cuộc. Người trên bờ cũng hòa theo tiếng xướng, tiếng xô rộn rã theo nhịp dầm:

- Ra đi vọng vái cầu bà,
      - Hố khoan!
      - Cho ăn giải nhứt,
      - Hố khoan!
      - Về nhà làm heo,
      - Hố khoan là hồ khoan!
...
- Pháo ta nước chảy bao nài,
     - Hố khoan!
     - Trống dồn, cờ phất,
     - Hố khoan!
     - Ngựa mình tranh tiên,
     - Hố khoan là hồ khoan!
      ...
       
     - Pháo ba, phách nhứt, phách nhì,
     - Hố khoan!
     - Đứng lên quyết thắng,
     - Hố khoan!
     - Phen ni đôi vòng,
     - Hố khoan là hồ khoan!
...

Theo tiếng xướng xô, các con bơi đẩy nhịp chèo rập ràng khi xuất phát nhưng khi đã gần đến đích, nhịp chèo nhanh hơn, tiết tấu và giai điệu dồn dập hơn. Khi đuổi theo, cố gắng vượt ghe trước, giành chiến thắng thì người lái liền đổi ngay điệu hát, bắt điệu “xốc xạ” và con bơi cũng đổi lời hô “hồ khoan” của điệu mái nhất thành lời xô “hố xạ”. Toàn bộ điệu “xốc xạ” có tốc độ nhanh gấp, dồn dập, tiết tấu dứt khoát, tạo nên âm điệu khỏe khoắn, hứng khởi. Người xem đứng trên bờ cũng hồi hộp không kém. Đến lúc tiêu đích không còn xa mấy, hò đua ghe lại chuyển qua giai đoạn cuối: tay dầm bơi nước rút, nhịp chèo cuốc mạnh xuống mặt nước, nhanh, dứt khoát. Bấy giờ người xem trên bờ chỉ còn nghe “hố khoan!”, “hố xạ!” không còn lời xướng, lời ca như trước và có lúc không kiềm giữ được cái thời khắc hấp dẫn nhất, hứng khởi nhất, họ cũng nhún nhảy, lấy mũ đang đội trên đầu mà tung lên trời rồi hô theo “hố khoan!”, “hố xạ!”

Người xướng:

      - Khoan hồ khoan!

Người xô:

      - Hồ khoan!

Cứ thế mà xạ, mà khoan:

      - Xạ hố xạ!
      - Hố xạ!
      - Đúc bánh xạ!
      - Hố xạ!
      - Xạ cho kêu!
      - Hố xạ.
      - Xạ cho đều!
      - Hố xạ!
      - Khoan hố khoan!
      - Hố khoan... Hê!
      - Quân tử đa đoan,
      - A, hố khoan!
      - Vợ chồng là nghĩa,
      - Í a... hố khoan!
      - Đá vàng trăm năm,
      - Í a... hố khoan!
      - Xạ hố xạ !
      - Hố xạ!
      - Phách nhứt xạ !
      ...

Ngày hội đua ghe trên sông nước Thu Bồn trở thành kỷ niệm khó quên trong lòng người xa xứ. Như vẫn còn âm vang đâu đây tiếng xướng, tiếng xô, làm dạt dào sóng nước trong nổi nhớ quê da diết khôn cùng.

HUỲNH VIẾT TƯ
 

;
.
.
.
.
.