.
Hồ sơ tên đường

Nguyễn Thông, người không sống chung với giặc

.

Nguyễn Thông là một trong những quan lại triều Nguyễn hưởng ứng phong trào “tị địa” sau khi thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

Đường Nguyễn Thông, thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà.
Đường Nguyễn Thông, thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà.

Nguyễn Thông (1827 – 1884) người làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định; nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. 10 tuổi ông mồ côi mẹ, 17 tuổi mồ côi cha, hai anh em ông phải vất vả kiếm sống, ham học nhưng không có thầy nên cả hai phải tự học. Về sau, mới được theo học thầy Võ Trường Toản ở Gia Định.

Năm 1844, ông ra học ở Huế. Năm 1849, ông đỗ cử nhân, hai năm sau thi Hội vào đến trường ba thì bị đánh hỏng vì quyển thi lấm mực. Biết văn tài của ông, nhiều người khuyên nên đợi đến khoa thi sau nhưng vì nhà nghèo nên ông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh An Giang.

Ông là người học rộng, tài cao, được triều đình Huế giao giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1855, ông được triệu ra Huế, thăng chức Hàn lâm viện Tu soạn, tham gia soạn sách “Nhân sự kim giám” (gương vàng soi việc người).

Năm 1859, khi thực dân Pháp xâm chiếm miền Đông Nam Kỳ, ông xin tòng quân và được giao coi việc cơ mật cho tướng Tôn Thất Hiệp. Năm 1861, đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông được thăng từ Vệ úy lên Chưởng vệ, sung chức Phó đề đốc để hiệp cùng Trương Định chống giặc.

Năm 1862, triều đình nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, ông về miền Tây giữ chức Đốc học Vĩnh Long để hưởng ứng phong trào “tị địa” (không sống chung với giặc). Đây là trào lưu của những người yêu nước bất hợp tác với Pháp; sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay Pháp, họ lánh khỏi các vùng bị thực dân chiếm đóng, đến lập nghiệp tại các nơi khác, một phần trong số đó về sau vẫn tiếp tục tham gia kháng chiến chống Pháp. Không những thế, ông còn cùng các bạn đồng môn tổ chức đưa di hài Võ Trường Toản từ Chí Hòa về cải táng Ba Tri (Bến Tre) vì không muốn mộ phần thầy nằm trên đất của giặc.

Khi mất thêm 3 tỉnh miền Tây, ông ra Bình Thuận làm Án sát rồi ra Quảng Ngãi làm Bố chánh. Bấy giờ, ông dâng sớ lên triều đình để biện bạch cho Phan Thanh Giản về việc họ Phan bị xử án “trảm quyết”, bị lột hết chức tước và đục bỏ tên ở bia tiến sĩ vì làm mất Nam Kỳ. Cùng với đó, ông mạnh dạn dâng 4 bản điều trần về kế sách hưng thịnh quốc gia lên vua Tự Đức: Chọn nhân tài bổ làm quan; Cải cách việc võ lược; Sửa đổi thuế đất và thổ sản; Chú trọng điều khoan hậu.

Ở bản điều trần “Chọn nhân tài bổ làm quan”, ông tha thiết: “Gần đây, có tệ bỏ chức nghiệp để đi cầu cạnh thanh danh, kết nhiều bè bạn để nhờ đề cử. Đã là thân nhơ bẩn mà muốn danh được đồn vang... Thần trộm thấy, thói cầu cạnh thịnh hành thì đạo liêm sỉ bị tổn thất, phép lựa chọn càng thả lỏng thì quan lại kém cỏi…”.

Tuy nhiên, tất cả đều không được chấp nhận vì sự gièm pha của các đại thần khác chính kiến trong triều.

Tại Bình Thuận và Quảng Ngãi, ông cho lập nhiều trang trại, thu nạp dân “tị địa” từ Nam Kỳ ra ngụ cư, vận động mọi người khẩn hoang, lập doanh điền… Ông thi hành nhiều biện pháp để bài trừ nạn tham ô, hà hiếp dân chúng của bọn cường hào ác bá địa phương. Việc làm này của ông đã đụng chạm tới quyền lợi của một số đại thần trong triều, vì vậy không lâu sau ông bị cách chức, tống giam và bị xử đánh roi, sau nhờ dân chúng kêu oan ông mới được giải tội.

Sau nhiều lần dưỡng bệnh, năm 1876, ông lại được triệu về kinh, giữ chức Tu nghiệp Quốc Tử giám. Thời gian này ông cùng với các quan trong triều như Bùi Ước, Hoàng Duy Tân khảo duyệt bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, nhân đó soạn Việt sử Cương giám Khảo lược.

Thơ văn ông đầy lòng nhân ái, ca ngợi và xót thương những người hy sinh trong cuộc chiến đấu chống Pháp, và trên hết là tấm lòng yêu mến quê hương mà ông phải lìa bỏ vì không chịu sống trên đất kẻ thù đã chiếm đóng.

Đà Nẵng đặt tên ông cho con đường dài 300m, rộng 7,5m từ đường Ngô Quyền đến đường Trần Hưng Đạo, thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, theo Nghị quyết số 61/2007/MQ/HĐND, ngày 7-12-2007 của HĐND thành phố về đặt, đổi tên đường ở Đà Nẵng.

LÊ GIA LỘC

;
.
.
.
.
.