.
CHUYỆN XƯA XỨ QUẢNG

Nguyễn Hàm Ninh, người nặng lòng với Đà Nẵng

Nguyễn Hàm Ninh từng bị  lưu đày ở Đà Nẵng nên khi giặc Pháp tấn công Đà Nẵng hòng mưu chiếm nước ta, ông càng nặng lòng với mảnh đất mình từng nếm trải gian khổ, cùng nỗi ưu tư về vận nước.

Nguyễn Hàm Ninh là danh sĩ triều Nguyễn, sinh năm Mậu Thìn (1808) tại làng Phù Ninh, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình (nay là làng Trung Thuần, xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Năm 1829, ông đỗ Tú tài, hai năm sau đỗ Giải nguyên tại trường Thừa Thiên và được bổ dạy học tại Quốc tử giám khi mới 23 tuổi. Năm 1833, làm tri huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, gặp lúc thân phụ qua đời, ông về cư tang.

Năm 1836, vua Minh Mạng thấy ông là người hiền tài nên triệu ông ra bổ chức Quốc học độc thư và dạy học cho Thái tử. Năm 1838, ông được chuyển giữ chức Tôn nhân phủ Chủ sự. Năm 1840, ông xin cáo quan về trí sĩ tại quê nhà.

Đến năm 1841, Hoàng thái tử Miên Tông là học trò của ông lên ngôi, ông lại được vời ra giữ chức Hành tẩu ở Nội các. Năm 1845, ông nhận chức Hình bộ Thị lang rồi Lang trung Bộ Lại, sau chuyển qua Bộ Lễ, cuối cùng thăng Án sát tỉnh Khánh Hòa. Tại đây, ông phạm tội bị đày đi Đà Nẵng, như sách Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tam kỷ, quyển LXIV (NXB Giáo dục, 2007, tr. 963) chép dưới đây:

“Thự Án sát tỉnh Khánh Hòa là Nguyễn Hàm Ninh có tội bị mất chức. Ninh lúc mới đến nhậm chức, có đi lễ các nơi chùa cổ, đền thiêng, nghe nói có một chiếc thuyền của người Tây dương đến đỗ ở ngoài bể, trong thuyền chỉ có độ 16 người. Ninh bảo thuộc hạ rằng: “Ta nghe nói người Tây dương rất có lòng tốt, không ngại gì, nhân tiện đến để an ủi”. Ninh mới ủy người tìm chúng lên bờ, tặng cho một thanh đoản kiếm, rồi cho thuyền về trước. Kế đó Ninh cùng thự Phó vệ úy Vũ Thành, tri huyện Vĩnh Xương Hoàng Minh và hơn 20 người viên biển, cùng xuống thuyền. Vừa ngồi yên, người Tây dương thốt nhiên cầm dao súng sấn đến trói cả lại, tra khảo đòi tiền bạc, làm đủ mọi thứ khổ nhục. Ninh không làm sao được, đâm đầu xuống biển tự tận. Người Tây dương lại cứu sống lại, giữ hơn 10 ngày, yêu sách không được, mới tha cho về. (Thuyền Tây dương) lại giương buồm mà đi. Việc đến tai vua. Vua than rằng: “Người Tây dương đến đó, chỉ là kiếm củi lấy nước mà thôi. Nguyễn Hàm Ninh là một viên quan to ở tỉnh, không có duyên cớ gì mà khinh thường đến, để mắc mưu chúng! Thân danh của Ninh vẫn không đáng kể, nhưng còn quốc thể thì sao?”. Lập tức sai bắt Ninh khóa tay, giải về, giao cho Bộ Hình trị tội. Đến khi án dâng lên, Ninh và Vũ Thành, Hoàng Minh đều bị cách chức, phát vãng đến 2 thành Điện Hải, An Hải sung làm quân. Bố chính Ngô Văn Địch, Lãnh binh Đỗ Tiệm không ngăn ngừa trước khi xảy việc, đều phải giáng một cấp. Bổ Lang trung Bộ Binh Đặng Bá Vân làm Án sát tỉnh Khánh Hòa”.

Thời gian ông bị đày ải ở Đà Nẵng, tuy sống những ngày làm lính hiệu lực cơ cực, nhưng khi giặc Pháp xâm chiếm nước ta, tấn công Đà Nẵng, với tấm lòng yêu nước thiết tha, ông không thể vui với cảnh gió mát trăng thanh, mà vẫn nặng lòng với mảnh đất mình từng bị lưu đày gian khổ. Ông theo dõi từng diễn biến nơi trận đầu hải chiến, mong ngóng từng tin thắng trận từ Đà Nẵng gửi về, tâm sự đó đã thể hiện qua hai bài thơ Cảm sự, nguyên văn chữ Hán, Nguyễn Thiếu Dũng dịch thơ như sau:

Ai khiến tàu Tây đến chốn này?/ Mấy vùng ven biển sấm lung lay!/ Cần Giờ đã mất hào sâu hiểm,/ Đà Nẵng còn trơ phong hỏa đài./ Ba bộ rụng rời cơn chướng họa,/ Bốn phương tin dữ hoảng hồn ai./ Đồng Nai đường đến khôn tìm dấu,/ Hai chục năm dư dễ vãn hồi?

Nhà thơ Mai Văn Hoan đã kể trong bài viết Giật mình đọc lại Nguyễn Hàm Ninh đăng trên vanvn.net rằng: Có lần, vào tiết thanh minh, nhà thơ Miên Thẩm ra Quảng Bình tìm thăm Nguyễn Hàm Ninh, cùng đàm đạo văn chương thế sự. Trong câu chuyện, Miên Thẩm báo tin: “Tàu Tây dương đang ngấp nghé ngoài biển Đông, rắp tâm xâm lược nước ta, triều đình đã cử tướng tài chuẩn bị đối phó”. Nguyễn Hàm Ninh bèn rủ bạn cùng trèo lên một ngọn núi khá cao ở Lệ Sơn (thuộc xã Văn Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình) để nhìn ra biển Đông.

Đứng trên đỉnh núi, ông phóng bút làm ngay bài thơ Lệ Sơn xuân vọng rồi dõng dạc đọc cho bạn nghe. Bài thơ nguyên văn chữ Hán, Nguyễn Thiếu Dũng dịch như sau:

Đồn cũ sương mù, rả rích mưa,/ Cỏ hoa quanh quẩn chỗ nhà xưa./ Nghìn cơn gió thổi qua đồng nội,/ Vạn dặm mây vần cõi thái sơ./ Non nước yên bình không biến đổi,/ Tây nhung xâm lược dạ chưa bưa?/ Đã nghe chín bệ xua thần tướng,/ Ngày vọng Sơn Trà tin thắng đưa.  

Hai câu cuối, nguyên văn là “Tự văn cửu bệ cần thôi cốc,/ Nhật vọng Cam Tuyền tấu tiệp thư”. (Dường nghe trên chín bệ đã cất nhắc vị đại tướng,/ Hằng ngày mong mỏi trông thấy Cam Tuyền báo tin thắng trận). Cam Tuyền là tên một quả núi ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, cách kinh đô Tràng An hai trăm dặm về phía Tây Bắc, đứng ở Tràng An thấy núi ấy. Khi có giặc Hung Nô xâm lấn biên giới, quan quân cho đốt khói lửa ở Cam Tuyền báo tin cho Tràng An biết.

Nguyễn Hàm Ninh đứng trên núi xa trông về Đà Nẵng, mong ngóng tin vui từ  Sơn Trà báo về. Tác giả bản dịch đã chuyển “Cam Tuyền” thành “Sơn Trà” để người đọc cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Hàm Ninh đối với nơi mình từng bị đày ải.

CHÂU YẾN LOAN
 

;
.
.
.
.
.