.
Phương hay Thuốc quý

Củ Riềng chữa bệnh tiêu hóa

.

Củ Riềng là gia vị không thể thiếu với các món thịt chó, giống như hành với thịt heo, lá chanh với thịt gà: “Con gà cục tác lá chanh/ Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi/ Con chó khóc đứng khóc ngồi/ Mẹ có đi chợ mua tôi đồng riềng”.

Riềng (Riềng thuốc) - Alpinia officinarum.
Riềng (Riềng thuốc) - Alpinia officinarum.

Riềng không chỉ là gia vị hấp dẫn trong các món ăn mà còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh. Riềng hay Riềng thuốc có tên khoa học: Alpinia officinarum Hance, họ Gừng Zingiberaceae. Trong Đông y, riềng còn có tên là Cao lương khương (do người Trung quốc phát hiện cây Riềng mọc ở nhiều vùng Cao lương nên có tên gọi là Cao lương khương).

Riềng là cây thảo sống nhiều năm, cao 50-120cm, thân mọc thẳng, thân rễ hình trụ mọc bò ngang, màu hồng nâu hay tím hồng, có đốt, trên đốt mọc rễ, có vảy. Lá mọc 2 hàng không cuống, bẹ hình mác, phiến lá dài 15-30cm, đầu nhọn gốc hẹp, mép nguyên, bẹ lá to ôm lấy thân. Hoa màu trắng mọc thành chùm thưa ở ngọn cây dài 5-15cm, mọc dày đặc, lá bắc tồn tại màu nâu, hoa lưỡng tính, đài hình ống dài 7-11mm, màu vàng nâu, có lông, tràng hoa hình phễu dài 1cm, xẻ 3 thùy, cánh môi to, có vân đỏ, 1 nhị đực, chỉ nhị to ngắn, bầu hạ 3 ô, vòi nhị dài. Quả hình cầu đường kính 1,2cm, có lông, khi chín màu hồng, hạt màu nâu, có áo hạt. Mùa hoa quả tháng 5 đến tháng 12.

Theo Đông y, Riềng có vị cay, tính ấm, vào kinh tỳ, vị, thận. Tác dụng ấm tỳ vị, giúp tiêu hóa, tán hàn trừ phong, hành khí tiêu hàn đàm, giảm đau. Trị tỳ vị hư lạnh, đau bụng do cảm hàn tà, nôn mửa, tiêu chảy do lạnh, sốt rét... Liều dùng 2 - 6g dưới dạng thuốc bột, thuốc viên, thuốc sắc. Người âm hư có nhiệt cấm dùng.

Nghiên cứu dược lý lâm sàng cho thấy dung dịch nước sắc Riềng 100% tác dụng ức chế trực khuẩn thán thư (Baccilus Anthracis, gây bệnh Than – Anthrax), liên cầu khuẩn tan máu α, β; trực khuẩn bạch hầu, cầu khuẩn viêm phổi, tụ cầu trắng, vàng,... Thí nghiệm trên người tác dụng ức chế trực khuẩn lao mức độ nhẹ.

Bài thuốc:

- Cao lương khương thang: Cao lương khương (Riềng khô) 200g, Hậu phác 80g, Đương quy 120g, Quế tâm 120g, các vị cắt lát hoặc tán dập mỗi lần dùng 20-40g sắc uống trị đột nhiên ngực thắt ngực, sườn đầy tức, cảm giác khó chịu.

- Nhị khương hoàn: Cao lương khương (Riềng khô), Can khương (Gừng khô) tán bột hoặc làm viên uống mỗi lần 2-6g sau khi ăn, uống với nước sắc Trần bì (Vỏ quýt), ngày 2-3 lần, trị đau dạ dày, bụng lạnh đau, tiêu hàn đàm, có thai cấm dùng.

- Trị đau dạ dày ngực do lạnh: Riềng, Hạt cau già liều lượng bằng nhau tán bột uống mỗi lần 2-4g với nước cơm, ngày 2-3 lần.

- Lương phụ hoàn: Cao lương khương (Riềng) 40g (tẩm rượu sao 7 lần tán bột), Hương phụ (Củ cỏ cú) 40g (tẩm giấm sao 7 lần), hai vị tán bột để riêng, cho vào lọ đậy kín. Bệnh do lạnh dùng Riềng 8g, Hương phụ 4g, bệnh do giận dữ đau nhức dùng Riềng 4g, Hương phụ 8g, nếu do lạnh kiêm giận dữ đầy tức đau nhức dùng Riềng 6g, Hương phụ 6g đều uống với nước cơm sôi và nước gừng, muối hoặc làm viên uống với nước gừng, muối. Trị đau một điểm ở vùng tim, dạ dày lạnh đau đầy trướng do cảm khí lạnh, giận dữ đau nhức thân thể.

- Trị thổ tả thuộc hàn chứng: Riềng sao cháy mỗi lần dùng 10-20g dùng rượu sắc uống.

- Băng hồ thang: Riềng (dùng sống tán dập) mỗi lần dùng 8-12g, Đại táo 1quả, sắc uống, trị thổ tả nôn mửa không cầm thuộc hàn chứng.

- Trị sốt rét hàn chứng: Riềng, Gừng khô liều lượng bằng nhau sao cháy tồn tính tán bột, hòa mật heo làm hoàn bằng hạt ngô, mỗi lần uống 8-12g (15-20 viên).

- Trị đau vùng thượng vị, đau dạ dày do lạnh: Hương phụ, Riềng tán bột hoặc làm viên mỗi lần uống 2-6g ngày 3 lần.

- Trị nôn mửa do lạnh và thấp thịnh: Riềng 10g, Bán hạ 6g, Gừng tươi 10g sắc uống, nếu nôn mửa kèm đau bụng dùng Riềng 10g, Táo 1 quả sắc uống.

- Trị lang ben: Riềng giã nhỏ ngâm rượu bôi hằng ngày.

PHAN LANG

;
.
.
.
.
.