.

Một người xứ Quảng đắm đuối cùng thơ

.

Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể. Mỗi ngày đi qua, mỗi người bạn thoáng qua trong đời đều lưu giữ những mến thương trên dặm đường lang bạt với tình yêu văn nghệ khó phai. Một trong những người bạn thơ tuy gần gũi không nhiều, nhưng để lại trong tôi một hình ảnh đẹp, nhân ái và chân thành, đó là nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh.

Nhà thơ Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Ngọc Hạnh, nhà phê bình Đặng Tiến, nhà thơ Đoàn Huy Giao, Nguyễn Văn Gia (từ trái sang).
Nhà thơ Trần Dzạ Lữ, Nguyễn Ngọc Hạnh, nhà phê bình Đặng Tiến, nhà thơ Đoàn Huy Giao, Nguyễn Văn Gia (từ trái sang).

Còn nhớ thời bao cấp, những năm tám mươi, sự đi lại từ Đà Nẵng vào miền Nam rất khó khăn, không như bây giờ. Vậy mà Hạnh đã lang thang vào Sài Gòn đi tìm những người bạn, mong gặp được những nhà thơ tên tuổi trước năm 1975 mà anh yêu quý từ thời còn đi học phổ thông.

Không biết tôi ở đâu nên anh nhờ nhà thơ Nguyễn Vân Thiên, người bạn cùng quê chở đi tìm. Gặp nhau ở chợ Trần Hữu Trang giữa lúc tôi “mười năm ở chợ không tri kỷ/ ta đứng thu thân một nỗi buồn (thơ Trần Dzạ Lữ)”. Tôi quá đỗi xúc động. Hạnh ôm tôi nói: Tôi thích thơ Trần Dzạ Lữ từ lúc còn học đệ tứ lận và đọc nhiều thơ của anh trên Văn, Bách Khoa, Văn Học, Thời tập, Tuổi Ngọc thời đó…

Tôi mê và thuộc nằm lòng những tên tuổi trong dòng văn học ngày ấy. Dù trước năm 1975, báo, tạp chí ở miền Nam không nhiều, phát hành hạn chế, nhưng hầu như giới trí thức, sinh viên học sinh luôn theo dõi, đọc thường xuyên; các tác giả lớn luôn là những thần tượng với anh em yêu văn học trẻ thời ấy. Có tài là được bạn đọc ngưỡng mộ, không mấy người đố kỵ, tranh giành hơn thua… Họ luôn là mẫu mực, là hình ảnh đẹp trong mắt chúng tôi ngày ấy.

Nguyễn Ngọc Hạnh kể với tôi, năm 17 tuổi, khi anh còn là học sinh đệ tứ, học ở Hội An, Hạnh đạp xe đạp lên ngã ba Vĩnh Điện ăn ngủ với nhà thơ Đynh Trầm Ca, nhân dịp anh ra mắt tập thơ tình Một chút cho tình yêu thời trai trẻ ấy. Sau này, tôi cũng nghe bạn bè Đà Nẵng cho biết, khoảng năm 1988, cũng tại thị trấn này, Nguyễn Ngọc Hạnh đã tổ chức thành công đêm thơ Tạ Làng của Phùng Quán tại Trường THPT Nguyễn Duy Hiệu (Điện Bàn), và hôm sau anh đưa nhà thơ xuống nhà Hoàng Lộc ở Hội An, cùng với nhiều anh em văn nghệ tổ chức giao lưu đọc và nghe thơ Phùng Quán bằng chính sự thôi thúc của tình yêu thơ ca “Lời mẹ dặn”.

Cho dù Hạnh gặp nhiều hệ lụy, nhưng vẫn yêu đến cháy lòng công việc mình làm. Không yêu, không rành mạch trong đời sống văn nghệ thì khó lòng vượt qua những cam go, tai ương của thời bao cấp ấy, nhất là khi đất nước mới vừa đổi mới.

Từ tình yêu văn chương, cộng với một tâm hồn cao đẹp mà những năm tám mươi, sau đêm thơ Tạ Làng của Phùng Quán tại Điện Bàn, Nguyễn Ngọc Hạnh đã lặn lội ra Hà Nội cùng nhà thơ trẻ Nguyễn Lương Ngọc (đã mất) đưa anh đến gặp các nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… tất cả cũng vì đắm say, tâm huyết dạt dào với tình yêu thi ca.

Chỉ trò chuyện một lần với nhau bên ly cà-phê ở một khu chợ mới mọc giữa Sài Gòn, nhưng thấm đượm cái duyên văn nghệ, cái tình thơ bất chợt rồi quý mến nhau từ đó. Chia tay bạn trong nỗi bùi ngùi, rồi sau đó suối trôi đời suối, sông chảy đời sông. Cuộc cơm áo lắm phong trần. Tuy vậy, trong lòng tôi luôn nghĩ về anh, một người đắm đuối, yêu văn chương chuẩn mực.

Cho đến năm 2015, một lần về thăm Đà Nẵng, tôi điện thoại cho Nguyễn Ngọc Hạnh và anh em văn nghệ gặp nhau. Hai anh em đến một quán cà-phê nằm bên bờ hồ Hàm Nghi, ngay góc đường mang hai tên tuổi lớn, Văn Cao và Quang Dũng. Bao nhiêu năm mới có dịp gặp lại nhau, trò chuyện về thơ ở một nơi chốn thế này hết sức thú vị.

Hôm sau là cuộc tụ hội với anh em văn nghệ Đà Nẵng thật ấm tình: Nhà thơ Đoàn Huy Giao, Nguyễn Nhã Tiên, Nguyễn Gia, Họa sĩ Hoàng Đặng, Nguyễn Duy Ninh, Nhà văn Trần Trung Sáng, trong một góc quán thật dễ thương.

Ngày thứ ba thì Hạnh đưa tôi, cùng vài người bạn và nhà phê bình Đặng Tiến (từ Pháp về thăm quê) qua thăm bảo tàng tư nhân đầu tiên ở Việt Nam của nhà thơ Đoàn Huy Giao bên chân núi Sơn Trà. Đến đây hít thở cái không khí trong lành và thơ mộng, tôi như được thanh tẩy mọi phiền não. Bạn tôi, nhà thơ Đoàn Huy Giao chọn một chỗ để làm việc và sáng tác thật lý tưởng. Tự nhiên tôi liên tưởng và nhớ đến bản nhạc Thiên ThaiSuối Mơ của nhạc sĩ Văn Cao…

Sáng tác của Nguyễn Ngọc Hạnh cả thơ và báo chí thì đăng tải khắp trong cả nước, riêng trên mạng Internet có gần 40 ca khúc mà nhiều nhạc sĩ đã phổ từ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh; trong đó không ít nhạc sĩ tên tuổi như Phan Huỳnh Điểu, Trọng Đài, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Cường... đã thổi vào thơ anh những cảm xúc giao hòa giữa thơ và âm nhạc.

Về thơ của Nguyễn Ngọc Hạnh, đã có nhiều người bình luận rồi, riêng tôi nói thật lòng là tôi rất yêu thơ của anh. Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh chân chất, không màu mè kiểu dáng. Đặc biệt những bài thơ viết về làng quê dung dị, mang đầy tâm trạng của những người con xa quê.

Làng là một trong những bài thơ như thế. Ngồi cà- phê với bạn bè ở Sài Gòn, khi nhắc đến Nguyễn Ngọc Hạnh, hầu như tôi nghe ai cũng nhớ “Xưa tôi sống trong làng. Giờ làng sống trong tôi”. Tâm trạng những người xa quê có thể thường hay nghĩ về điều này, nhưng viết ra câu thơ hay về làng là của Nguyễn Ngọc Hạnh. Thơ là vậy thôi, có lạ gì! Hoặc trong bài thơ Qua đò nhớ mẹ, anh viết như nói nho nhỏ thì thầm:

Bóng mẹ gầy lặn lội bờ sông
Đêm giá lạnh ẵm bồng ru tiếng khóc
Nỗi niềm trôi xuôi theo con đò dọc
Trôi cả thời thiếu nữ mẹ tôi…

Đây chỉ là một ghi chép từ ký ức dọc đường văn nghệ, về những kỷ niệm đáng nhớ một thời lang bạt, tôi không có ý định luận bàn về thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, nhưng tôi vốn là người làm thơ tình, nên khi đọc thơ tình của anh, tôi rất thú vị. Những bài thơ như Hạnh phúc lặng lẽ, Ngõ hẹp, Phút giao thừa, Có một ngày, Ngỏ lời yêu Hà Nội, Chiêm bao… cứ bồng bềnh, sâu lắng đầy cảm xúc lại vừa như tác giả muốn gửi gắm một điều gì đó với cuộc đời “đầy buồn vui, nhiều nước mắt”.

Thơ tình thì nhiều, nhưng viết cho lạ, tứ thơ đa tầng mà dung dị thì không dễ dàng. Nguyễn Ngọc Hạnh tỏ bày với người mình yêu một cách hình tượng, mới mẻ: “Em đã thắp sáng trái tim người đàn ông/ Cứu rỗi linh hồn ấy để cùng bay về phía ánh sáng bên kia hoàng hôn/ Có một bầu trời như thế/ Để tình yêu bay qua dịu dàng...”. Một bầu trời thơ rất riêng của Nguyễn Ngọc Hạnh mà tôi yêu quý. Thu rơi cũng là một trong những bài thơ rất thích. “Ai như vừa đi qua heo may/ Có nghe chăng mùa thu xa rồi/ Chút nắng hanh vàng còn sót lại/ Em bềnh bồng hay thu đang trôi”.

Có khi những phút bất chợt ấy đã ám ảnh tôi! Bất chợt ngày nào rất xa từ thời bao cấp Hạnh và tôi gặp nhau giữa chợ Sài Gòn. Bất chợt lần về Đà Nẵng cùng với nhà phê bình Đặng Tiến và những người bạn văn nghệ lâu ngày gặp lại. Bất chợt đôi khi như là một cơ duyên giữa tôi và Nguyễn Ngọc Hạnh - một người bạn đắm đuối với thơ, say mê thơ chân thành và chuẩn mực, anh luôn đi tìm những giá trị bất diệt của thơ ca cho dù bối cảnh lịch sử có thăng trầm, nghiêng ngã. Điều này với tôi luôn quý giá. Thơ chỉ có một, đó là thơ hay.

Tôi viết lại những câu chuyện dọc đường văn nghệ với những người bạn thơ của mình cũng chỉ là cách tri ân cuộc đời và lưu giữ kỷ niệm ấy cho riêng mình. Đi hết một đời mà đâu dễ gặp tri âm! Xin mượn mấy câu trong bài Câu thơ mắc cạn của Nguyễn Ngọc Hạnh để dốc cạn nỗi niềm: Biết là chân thấp trời cao/ Vầng trăng phía trước bèo ao phía này/ Ruột gan cháy xé miệng cay/ Tôi xin dốc cạn trời mây/ Rượu tràn…

Trần Dzạ Lữ

;
.
.
.
.
.