Nhà văn Trần Thùy Mai và "những giấc mơ hoang tưởng"

.

Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước  giải phóng (1975). Nhưng lúc đó chị chỉ viết lai rai cho vui chưa thật có ý thức như bây giờ.

Sau giải  phóng chừng một hai năm, tôi may mắn gặp Trần Thùy Mai ở trại viết Vĩ Dạ do Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên tổ chức. Tôi còn nhớ mãi cái dáng thanh mảnh, nụ cười có lúm đồng tiền và giọng nói thủ thỉ của Mai.

Kết thúc trại, Mai đưa một quyển sổ, nhỏ nhẹ nói với tôi và Hoàng Vũ Thuật: Hai anh viết cho Mai vài dòng kỷ niệm. Mới đó mà đã mấy chục năm trôi qua, chẳng biết bây giờ quyển sổ ấy Mai còn giữ không?

Nhà văn Trần Thùy Mai.
Nhà văn Trần Thùy Mai.

Truyện ngắn đầu tiên của Trần Thùy Mai mà tôi được đọc là Chiếc vỏ bắp biết bay, in trên Văn nghệ Bình Trị Thiên với một giọng văn nhẹ nhàng. Ngày đó, một số bạn văn của tôi không thích, thậm chí có phần dị ứng với lối viết của Mai.

Họ coi văn chương của Trần Thùy Mai là loại văn chương tình cảm lãng mạn kiểu học trò. Đúng là dấu vết học trò còn vương vấn khá nhiều trong những truyện ngắn đầu tay của chị. Rồi Trần Thùy Mai âm thầm vươn lên trong từng trang viết.

Chị quyết định rời bỏ công việc giảng dạy ở Trường Đại học Sư phạm Huế, chuyển sang làm công tác biên tập ở Nhà xuất bản Thuận Hóa. Theo tôi, đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn. Dần dần Trần Thùy Mai xem viết văn là một nghề.

Chị toàn tâm, toàn ý với cái nghề khá chông gai “lành ít dữ nhiều” này. Trần Thùy Mai viết “để được tồn tại trong những cảnh đời khác nhau”, “được sống những gì mình mơ ước”, “được nói những điều không nói giữa đời thường”,  “là cách thoát ra khỏi sự hữu hạn của đời người”. Đã mấy chục năm nay chị viết một cách say sưa, lặng lẽ, chăm chỉ, cần mẫn.

Chị “chưa bao giờ chán viết hay có ý định buông bút”. Viết trở thành nhu cầu, niềm đam mê của Mai. Những tập truyện ngắn Bài thơ biển khơi, Cỏ hát, Thị trấn hoa quỳ vàng, Trò chơi cấm, Mưa đời sau, Mưa ở Strasbourg, Một mình ở Tokyo... lần lượt ra đời, khẳng định chỗ đứng của chị trên văn đàn.

Sở trường của Trần Thùy Mai là truyện ngắn. Chị chỉ viết “những gì mình thích, những gì thực sự gắn bó với mình”. Đề tài quen thuộc trong truyện của Mai là đề tài tình yêu – một trong những đề tài vĩnh cửu của văn chương nhân loại.

Theo chị thì  tình yêu là “động lực của sự sống, biểu hiện tối ưu của tính nhân văn”,  “là đôi cánh giúp cho con người vượt qua biên giới của chính mình”. Hầu hết những câu chuyện viết về tình yêu của Trần Thùy Mai đều có vị đắng. Cái đẹp và hạnh phúc trong hàng loạt truyện ngắn của chị như Thương nhớ hoàng lan, Gió thiên đường, Đêm tái sinh, Trăng nơi đáy giếng, Cánh cửa thứ chín, Thập tự hoa... đều rất mong manh.

Gần như chị lấy nguyên mẫu từ thân phận của những người chung quanh và cả “thân phận tình yêu” của chính cuộc đời mình để viết. Hạnh phúc mà người thiếu phụ trong Thập tự hoa được hưởng hết sức ngắn ngủi, chẳng khác gì “một giấc mơ hoang tưởng”. Để rồi suốt đời nàng phải mang vác trên đôi vai mảnh mai của mình “cây thập tự” quá khứ. 

Tình yêu của Lan trong Thương nhớ hoàng lan cũng mong manh, cũng hoang tưởng như vậy. Lan buộc lòng phải lấy chồng xa xứ, còn Minh thì tiếp tục sống đời tu hành… Hay những gì mà Quyên trong Cánh cửa thứ chín được hưởng lại càng mong manh hơn.

Chỉ cần một lần gặp “người trong mộng” rồi hạnh phúc tan biến như bong bóng xà phòng: Một thế giới vừa bị lấp vùi. Những hồi chuông điện thoại đã tắt, không còn mây trời, biển và rừng trong bốn bức tường vây kín...

Có nghĩa là tình yêu của nàng với người nàng vẫn chuyện trò qua điện thoại cũng chỉ là “một giấc mơ hoang tưởng” mà thôi. Ngay vẻ đẹp của Thanh Thúy Tàu (Gió thiên đường), của Ngân (Đêm tái sinh) của Lan (Thương nhớ hoàng lan)... cũng đã ẩn chứa sự mong manh, rất dễ tan biến.

Mỗi câu chuyện là một tình khúc buồn, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Những tình khúc buồn ấy nhắc nhở mọi người phải biết tận hưởng, phải biết bảo vệ, phải biết nâng niu, trân trọng cái đẹp và hạnh phúc trong cuộc sống.

Cốt truyện của Trần Thùy Mai thường đơn giản. Chị tập trung khai thác, thể hiện thế giới nội tâm nhân vật. Phần lớn truyện ngắn của Trần Thùy Mai được kể theo ngôi thứ nhất. Với cách kể này, tác giả có điều kiện nhập thân, hóa thân vào nhân vật “tôi”.

Tác giả cũng dễ dàng  gửi gắm những ý nghĩ, tình cảm của mình: “Giờ đây trước những nỗi đau tôi đã quen với lối khóc không trào lệ” hay “Tôi sẽ chịu đựng mọi thứ trên đời, ngoại trừ sự ghẻ lạnh”... Cách kể theo ngôi thứ nhất còn làm cho độc giả trở thành người bạn gần gũi, thân thiết để nhân vật “tôi” giải bày, chia sẻ: bất giác tôi òa khóc.

Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những tục lụy cuối cùng (lời tâm sự của nhân vật Minh trong Thương nhớ hoàng lan) hay Nguyệt và Thìn đột nhiên biến mất. Hồ Tịnh Tâm mà sao tim tôi không tịnh?( lời tâm sự của nhân vật “tôi” trong truyện Quỷ trong trăng)... Cách kể này đã góp phần tạo nên chất giọng trữ tình nhẹ nhàng, sâu lắng.

Không chỉ có chất giọng trữ tình, nhẹ nhàng sâu lắng, truyện của chị còn ẩn chứa nhiều chiêm nghiệm, triết lý, suy tư. Trong Thương nhớ hoàng lan là triết lý đạo Phật do chính các sư thầy đúc kết. Chẳng hạn như: Thiền dạy tu hành để cứu chúng sinh.

Nay còn có thể cứu một sinh linh sao lại khước từ; Tu trên núi thì dễ. Tu giữa chợ mới khó; Ai bảo đời là tục? Đời không tục, không trong”; “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ”...

Còn đây là những chiêm nghiệm, triết lý, suy ngẫm của những người đã yêu và đang yêu: “Người ta có thể cố gắng học, cố gắng làm, không ai cố gắng yêu” ;  “Trong tình yêu, hạnh phúc thật ngọt ngào mà cả đau khổ cũng đầy thi vị, chỉ có sự trống rỗng chán chường của kẻ không yêu mới là khủng khiếp”; “Đàn ông khởi đầu một cách điên cuồng rồi dịu đi trong hèn nhát.

Còn đàn bà càng lúc càng giam mình trong kỷ niệm ngu dại và xót xa”... Cả cách miêu tả ngoại hình nhân vật của chị cũng mang tính triết lý, chiêm nghiệm. Chị thường tập trung làm nổi bật những khiếm khuyết của các nhân vật mà chị yêu mến.

Ở Hiếu (Gió thiên đường) là “nụ cười răng mẻ”. Ngân (Đêm tái sinh) là thân hình quá ư mảnh mai, khi múa “để lộ cả xương cổ, xương bả vai”. Còn nàng Nguyệt (Quỷ trong trăng) là bước đi khập khiễng... Điều này không những góp phần tạo nên nét riêng trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình mà còn làm cho các nhân vật của chị gần gũi với cuộc sống đời thường.

Trần Thùy Mai trước khi viết  thường “tìm một người, một khung cảnh có thực để bám vào giúp cho sự “tưởng tượng được dễ dàng hơn”. Mai chủ yếu sống ở Huế, vì thế cảnh và người để chị “bám vào” trước khi viết chủ yếu là cảnh và người xứ Huế.

Những độc giả tinh tường biết rất rõ những nguyên mẫu mà Trần Thùy Mai đã lựa chọn đưa vào trong những truyện ngắn của chị. Họ có thể nói một cách chính xác bức tranh vẽ mèo trong Thập tự hoa có  nguyên mẫu từ  bức tranh  của  họa sĩ nào, những nhân vật  tụ tập ở hồ Tịnh Tâm như “trung niên thi sĩ”, Ngàn Khơi, Tư râu, Thìn, Thiếp chân cò là những ai ngoài đời.

Cốt truyện Trăng nơi đáy giếng và Quỷ trong trăng đều  là  những chuyện có thật. Tất nhiên từ những nguyên mẫu ấy Trần Thùy Mai đã nhào nặn lại, hư cấu thêm. Nói như chị “hư cấu tạo cho câu chuyện nhiều tầng nghĩa mới, những bề sâu, thoát ra cái tầm thường”.      

Trần Thùy Mai là một trong những cây bút viết truyện ngắn đầy bản lĩnh và có phong cách trên văn đàn hiện nay. Chị không chạy theo thị hiếu tầm thường. Trả lời phỏng vấn các nhà báo, chị nói: Trong vườn văn, tôi dọn khu vườn nhỏ của riêng tôi, để chờ người tri âm đến, không muốn vội vã theo dòng”.

Chị cũng “không dị ứng với cái mới”. Chị chỉ dị ứng với những cái “mới mà không nhân văn”. Tôi cũng rất đồng tình với ý kiến sau đây của chị:  Tạo cho người ta chú ý những thứ tưởng là mới thì dễ. Nhưng để người ta nhớ tác phẩm thì khó khăn hơn nhiều.

Đọc một số truyện ngắn gần đây của Trần Thùy Mai, bạn đọc vô cùng ngạc nhiên, không hiểu sao đến cái tuổi “tri thiên mệnh” mà chị vẫn giữ được lối viết về tình yêu trong trẻo, say đắm, mãnh liệt như vậy!

Khu vườn văn chương của chị càng ngày càng thu hút nhiều khách tri âm đến chiêm ngưỡng và chia sẻ. Một số tác phẩm xuất sắc của chị đã được dựng thành phim như Thập tự hoa, Gió thiên đường, Trăng nơi đáy giếng. Chị cũng đã nhận được nhiều giải thưởng xứng đáng.

Nhà văn Trần Thùy Mai đã xuất bản: Bài thơ về biển khơi (tập truyện ngắn, 1983); Thị trấn hoa quỳ vàng (tập truyện ngắn, 1994); Trò chơi cấm (tập truyện ngắn 1998); Quỷ trong trăng (tập truyện ngắn, 2002); Thập tự hoa (tập truyện ngắn, 2003); Đêm tái sinh (tập truyện ngắn, 2004); Người khổng lồ núi Bạc (truyện dài thiếu nhi, 2002); Mưa đời sau (tập truyện ngắn, 2005); Mưa ở Strasborg (tập truyện ngắn 2006 ); Một mình ở Tokyo (tập truyện ngắn 2008).

Bà được nhận các giải thưởng: Giải thưởng văn học Cố đô lần 2 năm 1998 và lần 3 năm 2004, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2002, Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam 2003, Giải thưởng của Nhà xuất bản Trẻ năm 2002, Giải thưởng Văn chương của Hội Hữu nghị San Francisco-TP. Hồ Chí Minh năm 2011.

                                                                                           Mai Văn Hoan

;
.
.
.
.
.
.