65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2019)

Trở lại Điện Biên

.

Nhìn lên bản đồ Tổ quốc, tôi hình dung vùng đất Lai Châu giống như một bàn chân tảo tần đang bám vững vào núi mà Điện Biên Phủ chính là cái gót chân đang nhẫn nại gánh toàn bộ sức nặng đó. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã có một nhận xét về Điện Biên trong Kiến văn Tiểu Lục: “Châu này thế núi vòng quanh, nước sông bao bọc, đồn sở ở giữa, ruộng đất bằng phẳng màu mỡ, bốn bề đến chân núi phải đi một ngày đường, công việc làm ruộng bằng nửa công việc châu khác, mà hoa lợi lại thu hoạch gấp đôi. Thổ sản có sa nhân, sáp vàng, diêm tiêu, lưu hoàng và sắt sống.Có một quả núi nước rất mặn, thú rừng thời thường đến uống, người địa phương dùng nỏ bắn được rất nhiều, tục gọi là mỏ thịt”

Một góc thành phố Điện Biên. Ảnh: N.N.P
Một góc thành phố Điện Biên. 

Qua một người bạn làm báo ở Điện Biên, tôi được biết, thế núi vòng quanh ấy chính là dãy Pú Hồng Mèo phía đông và dãy Pú Tà Cọ phía tây quay mặt vào nhau, chung thủy sóng đôi cùng chảy dài rồi rủ nhau hút dần theo hướng Bắc - Nam.

Đó là hai cánh tay gân guốc khổng lồ của người anh hùng thần thoại Ải Lậc Cậc trải nghìn đời chở che, ôm ấp vì sự bình yên cho mảnh đất tiền đồn. Đây là một pháo đài thiên nhiên kẻ thù khó xâm nhập, không gian chật hẹp không lợi cho việc an cư của con người vùng thượng sông Đà.

Từ Hà Nội lên Điện Biên Phủ bây giờ chỉ không đầy một giờ bay nhưng chúng tôi chọn đi bằng đường bộ, con đường năm xưa cha anh đã kéo pháo, xe thồ đi chiến dịch để cảm nhận hết những sự vất vả gian truân làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu. Chúng tôi lên Điện Biên với niềm háo hức ấy. Ai đó trong xe đang nhẩm hát: “Qua miền Tây Bắc núi chập chùng xa” và đọc thơ Quang Dũng: “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm - Heo hút trời mây súng ngửi trời” và “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Trước đây lên Điện Biên chỉ có thể theo đường số 6 từ Hòa Bình qua Sơn La hoặc đường 12 từ Phú Thọ qua Yên Bái, Lào Cai sang Lai Châu. Còn bây giờ chúng tôi đi qua Ninh Bình đến Thanh Sơn (Phú Thọ) qua đèo Cón lên Sơn La để tới Điện Biên. Đường lên Tây Bắc có vẻ đẹp hoang sơ thấp thoáng bóng sơn nữ. Trên những sườn núi các thửa ruộng lớp lớp như những chiếc thang bắc vào mây lần lượt đổi màu theo từng mùa lúa chín, thưa thớt đôi lúc xa xa một vài nếp nhà sàn mái tranh bàng bạc. Những cái tên: Cò Nòi, Pha Đin, Thẳm Phúa, Chiềng Xôm, Tằng Quái... 

Tây Bắc bất chợt và huyền thoại. Cảm giác thảng thốt luôn thường trực trong tôi. Từng chùm hoa gạo đỏ như đàn chim trời chợt bay, chợt đậu. Đợt này chúng tôi lên Tây Bắc đã qua mùa hoa ban trắng. Dọc những cánh rừng là bạt ngàn hoa dẻ và tiếng ve kéo nứa chớm vào hè. Tiếng ve thổn thức âm âm từ lòng rừng như tiếng của ngàn xưa úp mặt vào cây mà tình tự, mà ấm ức, mà dạt mỏng cái nắng ngọt đầu mùa và chăng những sợi chỉ đỏ thổ cẩm giăng mắc trong khí trời khí đất.

Điểm đầu tiên chúng tôi đến là Mường Phăng. Từ trung tâm Điện Biên đến Mường Phăng chỉ khoảng 40km. Đường vào Mường Phăng hay còn gọi là “Khu rừng Đại Tướng” ngút ngàn hoa trẩu trắng. Rừng còn nguyên sinh, không gian mát mẻ như bước vào một cuộc du lịch sinh thái.

Di tích lịch sử này được “bê-tông hóa” nhằm kéo dài tuổi thọ toàn bộ sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ như: Nhà đón tiếp, trạm gác, lán tổng đài điện thoại, lán và hầm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lán Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, nhà giao ban, lán cố vấn Trung Quốc, đài quan sát pháo binh,... Đó đây vẫn còn gặp những người phụ nữ Thái ngồi bán thuốc nam.

Trong ký ức, chúng tôi ai cũng thuộc bài học viết về anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân hình chèn pháo. Trong những ngày ngắn ngủi ở Điện Biên, tôi được gặp một nhân chứng lịch sử là ông Nguyễn Quang Thuận, một trong 5 chiến sĩ Điện Biên xuất sắc nhất được Bác Hồ gắn Huân chương Chiến công trên ngực sau ngày chiến thắng lịch sử 7-5.

Ông Thuận kể cho tôi nghe về chuyện cứu pháo của ông cũng tương tự như trường hợp Tô Vĩnh Diện hy sinh cách đó vài ngày: Đó là những ngày kéo pháo ra chuẩn bị theo phương án “đánh chắc, tiến chắc”. Khẩu pháo nặng 2,4 tấn được buộc chặt với tời quay bằng gỗ. Trên trăm người bám lấy dây chảo mà kéo pháo lên hoặc ròng xuống. Pháo cao xạ có 4 bánh xe, hơi chệch hướng là có thể gây ra nguy hiểm. Tôi khỏe nhất khẩu đội nên được giao nhiệm vụ lái càng khẩu pháo, 4 chiến sĩ cầm chèn gỗ, bám sát từng bánh xe, giữ cho khẩu pháo nhích dần xuống dốc. Đang lúc đến đoạn hiểm trở nhất, có tiếng thét từ đỉnh dốc “Dây tời tuột rồi! Dây tời tuột rồi!”. Cỗ pháo bắt đầu lao nhanh. Hai dòng người bám chặt hai sợi dây, choải chân, rạp mình cố sức ghìm nhưng không chặn pháo lại được. Bốn đồng chí cầm chèn pháo bị văng ra ngoài hết. Tôi cố bám chắc càng pháo nhưng vẫn bị sức nặng cỗ pháo đẩy đi. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu: “Dù có phải hy sinh như Tô Vĩnh Diện cũng phải cứu pháo!”. Tôi lao theo, cố nâng càng pháo lên ngang ngực rồi lấy toàn thân làm trụ chống đẩy mạnh vào vách núi. Mắt tôi tối sầm khi cả cỗ pháo phập vào sườn núi rồi khựng lại...

Bây giờ ông đang ngồi trước tôi, trên bộ quân phục bạc màu không gắn quân hàm sao vạch, chỉ có những tấm huân chương lấp lánh. Ông đã trở lại làm thường dân với nụ cười đôn hậu, hàm răng ám khói thuốc lào, bàn tay vậm vạp sần sùi cày cuốc.  

Anh hùng Phan Đình Giót quê tôi (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) cũng là một người lính nông dân như thế. Tôi hình dung một Phan Đình Giót năm xưa chất phác, ít nói, hay cười với dáng người thấp đậm vòng ngực, vòng lưng, vòng tay cuồn cuộn. Bây giờ ảnh của ông treo trong Bảo tàng Điện Biên vẫn khuôn mặt chữ điền, hồn hậu và nụ cười trẻ mãi với hơn hai mươi tuổi đời. Một đồng đội của ông kể lại: Cả thân mình ông lấp lỗ châu mai, bịt chặt khẩu đại liên của địch đến nỗi người cháy đen không còn nhận dạng được.Chỉ khi đồng đội móc túi áo lấy ra một tấm bìa nhỏ ghi tên: Phan Đình Giót mới biết đó là anh.

Trong nghĩa trang Điện Biên ông nằm cạnh anh hùng Trần Can. Phan Đình Giót hy sinh ngày 13-3-1954, ngày mở đầu chiến dịch còn Trần Can hy sinh ngày 7-5-1954, ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Cả nghĩa trang 640 mộ mà tấm bia nào cũng chỉ ngời lên một ngôi sao đỏ không tuổi tên, không quê quán. Chúng tôi gọi các anh bằng cái tên chung là: Chiến sĩ Điện Biên! Chiến sĩ Điện Biên mũ nan tre, dép lốp cao su ngủ hầm cơm vắt.

Hút trên vòm trời xanh trong Điện Biên một đàn chim bay về phía núi như vong linh các anh trở lại với rừng. Mỗi ngôi mộ là một phím đàn trắng trong bản hợp âm (hay phúc âm của phục sinh) của sự sống.
Vào thăm bảo tàng chiến thắng ở Điện Biên tôi ngẩn ngơ trước chiếc xe đạp thồ cõng trên mình những chiếc bì gạo tròn căng. Một nhà báo Pháp đã ví những chiếc xe đạp thồ này là “dòng sông sắt huyền thoại”. Chợt vang lên trong tôi câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng” đã kết thành vòng hoa 5 màu sắc: Thanh (xanh), Hồng, Lam, Trắng và Vàng, đó cũng chính là vòng hoa của Điện Biên kính dâng lên hương hồn của các liệt sĩ.

Điện Biên hôm nay có nhiều đặc sản: rượu chít, măng đắng, thổ cẩm đủ sắc màu và đặc biệt là gạo thơm Điện Biên, thứ gạo mang nhãn hiệu IR 64 vừa dẻo vừa bùi. Ở đây có một đặc sản vô cùng quý báu vừa hoang sơ vừa thấm đậm tình người, đó là ai cũng mến khách. Xe máy, xe đạp buổi tối người dân cứ để ngoài hiên chỉ kéo cánh cổng lại. Đêm cuối cùng trước khi rời Điện Biên, chúng tôi được tham dự giao lưu với đội văn nghệ bản Ten cách trung tâm thành phố chưa đầy một cây số. Những cần rượu vít cong, khuôn mặt ửng hồng của cô gái Thái trong bộ váy áo truyền thống. Ngày đi làm nương tối ra sân khấu biểu diễn say sưa múa hát, say sưa chúc rượu.

Xa rồi Điện Biên nhưng có một Điện Biên giăng mắc ở bên lòng. Tuy không được gặp hoa ban nhưng trong ký ức của tôi vẫn có những cánh ban mỏng tang, trắng nuốt đón mình như người bạn cũ, bền bỉ thủy chung gắn bó với đất đai sông núi nơi này. Vì theo cách nói của người Thái: “Đũa cong không ăn được/ Bụng cong không ở được”. Buổi sáng chúng tôi lên đường, anh bạn quay phim đã kịp thời chớp được hình ảnh chiếc máy bay ATR-72 của Việt Nam Airlines đang cất cánh. Có một Điện Biên huyền thoại đang cất cánh bay lên từ trầm tích lịch sử...

Bài và ảnh: NGUYỄN NGỌC PHÚ

;
;
.
.
.
.
.