Những trang viết bằng hồi ức

.

Nhà văn Ma Văn Kháng viết nhiều thể loại và gặt hái nhiều thành công với tiểu thuyết, truyện ngắn. Những năm tháng sống ở vùng núi cao Lào Cai để lại trong ông những ký ức khó quên và đó cũng là chất liệu “vàng ròng” làm nên những tác phẩm văn học nổi tiếng.

Nhà văn Ma Văn Kháng thường tâm niệm, viết văn trước hết là kể câu chuyện về số phận con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Ảnh: THƯ HOÀNG
Nhà văn Ma Văn Kháng thường tâm niệm, viết văn trước hết là kể câu chuyện về số phận con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Ảnh: THƯ HOÀNG

Nhà văn Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936 tại làng Kim Liên (Hà Nội). Mấy năm nay ông phải sống chung với… thuốc và ông nói rằng mỗi ngày phải uống một “vốc thuốc”. Song, ông vẫn ra sách mới. Cuốn nào ông cũng coi là cuốn cuối cùng. Có thể là cách ông nói vui với bạn bè, với giới truyền thông, song đó cũng có thể là suy nghĩ thật, bởi trước bệnh tật thì không nói trước được điều gì.

Gần 1/4 thế kỷ sống và làm việc trên rẻo cao

Với những cuốn sách gần đây của Ma Văn Kháng như Chuyện của Lý (tiểu thuyết), Xa xôi thôn ngựa già (tập truyện vừa), Nhà văn anh là ai?, Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký), Phút giây huyền diệu (tiểu luận và bút ký), người ta cảm giác ông viết bằng hồi ức, bằng những câu chuyện xưa cũ về những tháng ngày trai trẻ ông đã sống, rong ruổi trên vùng cao.

Ma Văn Kháng từng chia sẻ, thuở nhỏ ông rất thích văn học nên đã viết để tham gia các cuộc thi của nhà trường. Tuy vậy, hồi ấy ông không nghĩ mai này sẽ là nhà văn. Lớn thêm chút nữa, ông đọc nhiều tiểu thuyết lãng mạn và trong thâm tâm chàng trai lúc đấy bắt đầu tâm niệm mình sẽ phải viết.

Bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời ông có lẽ là quyết định đi Lào Cai lập nghiệp, bắt đầu là anh giáo dạy trường cấp 2. Năm 1961, Ma Văn Kháng về Hà Nội học Đại học Sư phạm Hà Nội I. Năm 1963, ông lại ngược lên Lào Cai dạy Văn rồi làm Hiệu trưởng một trường cấp 3. Đang làm Hiệu trưởng thì ông được điều làm thư ký cho lãnh đạo tỉnh Lào Cai. Đến thời kỳ sáp nhập 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ, ông mới có cơ hội xin về Hà Nội. Gần 1/4 thế kỷ sống và làm việc trên rẻo cao đã để lại trong ông những ân tình, giúp ông có vốn sống dày dặn về phong tục tập quán của người vùng cao. Vì thế, khi sáng tác, những trang văn của ông thấm đẫm sương mù, gió lạnh và con người vùng núi cao cũng là điều dễ hiểu.

Với đề tài thầy giáo và nhà trường, Ma Văn Kháng có 2 cuốn tiểu thuyết đình đám là Đám cưới không có giấy giá thú và Gặp gỡ ở La Pán Tẩn. Bên cạnh đó, những truyện ngắn của ông cũng đậm đặc chân dung của người giáo viên như: Người đánh trống trường, Thầy Khiển, Thầy Phùng kỳ quặc… Đó là những tấm chân dung vui có, buồn có, và đầy tình người nơi vùng núi cao heo hút.

Viết văn trước hết là kể câu chuyện về số phận con người

Từ truyện ngắn đầu tiên đăng trên báo Văn học vào tháng 3-1961 tới nay đã gần 60 năm. Nghĩ lại quãng đời viết văn của mình, chính ông cũng thấy hơi bất ngờ tại sao mình lại bền bỉ, chịu thương chịu khó đến thế! Với Ma Văn Kháng, nghề văn cũng như bất cứ nghề nào khác, điều quan trọng là làm được việc mà mình yêu thích.

Nhà văn Ma Văn Kháng thường tâm niệm, viết văn trước hết là kể câu chuyện về số phận con người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Ông thường cảm ơn những năm tháng sống và làm “một ông thầy thực thụ” ở Lào Cai. Đó là một thời không thể nào quên, trang bị cho ông vốn sống để rồi trở thành chất liệu “vàng ròng” làm nên những tác phẩm văn học nổi tiếng về các dân tộc vùng núi phía Bắc như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gặp gỡ ở La Pán Tẩn, Một mình một ngựa…

Sẽ thiếu sót khi nhắc về đời viết của Ma Văn Kháng mà không nhắc tới cuốn Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân. Đó là cuốn sách gần đây nhất của ông, được viết bằng những mảnh hồi ức chợt hiện. Đây không phải là tiểu thuyết, cũng không phải truyện ngắn, và tác giả ghi trên sách “ký sự tiểu thuyết”. Ma Văn Kháng bày tỏ: Cuốn sách viết về giai đoạn các em thiếu niên sau thời gian góp sức cùng lớp đàn anh trên các mặt trận kháng chiến, được sự quan tâm săn sóc của Bác Hồ, Tổng Quân ủy Trung ương, đã trở về mái trường Thiếu sinh quân để học tập, rèn luyện. Cơ sở để tạo nên cấu trúc của cuốn sách này chính là các sự kiện có thật trong lịch sử biên niên của trường Thiếu sinh quân Việt Nam đã tồn tại từ đầu năm 1949 đến giữa năm 1951.

Tuy vậy, nhà văn Ma Văn Kháng không muốn dừng lại ở những ghi chép, tư liệu. Ông muốn biến nó thành một thiên tiểu tuyết có đầu có cuối, có cốt truyện để khắc họa lại “hương vị của một thời đại”. Bên cạnh đó, Ma Văn Kháng cũng cho rằng, tiểu thuyết chính là nơi lưu giữ bóng hình cuộc sống, lưu giữ một cách trung thành và đầy đủ nhất.

Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân có thể không hấp dẫn số đông độc giả thiếu nhi hiện nay và không trở thành bestseller (bán chạy nhất). Song, những trang viết của nhà văn Ma Văn Kháng có giá trị khơi dòng, đánh thức những ký ức ngủ yên trong một lớp người đã qua thời thiếu sinh quân sôi động, khơi ngợi cho người đọc hôm nay tìm hiểu về thời thiếu sinh quân. Nó chính là một trang sử ghi lại bằng hồi ức của một nhà văn từng tham gia thiếu sinh quân. Vì thế, nó lạ, riêng và quý.

THƯ HOÀNG

;
;
.
.
.
.
.