Nghệ sĩ Nhân dân-Tiến sĩ Bạch Tuyết: Dấu ấn một tài hoa

.

Nghệ sĩ Nhân dân-Tiến sĩ (NSND-TS) Bạch Tuyết năm nay bước qua tuổi 76, nhưng bà vẫn chia sẻ trên mạng xã hội những tâm tình về đời, về nghề, thậm chí “cover” (hát lại) một số ca khúc hit của các ca sĩ trẻ với nền cổ nhạc: Lạc trôi của Sơn Tùng M-TP, Em gái mưa của Hương Tràm... Tất cả toát lên tâm hồn NSND - TS Bạch Tuyết vẫn còn rất trẻ.

NSND-TS Bạch Tuyết hóa thân thành Thái hậu Dương Vân Nga.  (Ảnh do nhân vật cung cấp)
NSND-TS Bạch Tuyết hóa thân thành Thái hậu Dương Vân Nga. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

1.NSND-TS Bạch Tuyết sinh năm 1945 tại Khánh Bình (thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang). Thuở còn đi học, Bạch Tuyết đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm. Như nhiều bạn bè cùng trang lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ nghệ sĩ Thanh Nga. Mỗi khi có dịp, Bạch Tuyết thường chui vào hậu trường để xem và xin chữ ký của nghệ sĩ Thanh Nga. Một lần nghe qua giọng Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương. Lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa Bạch Tuyết đến với nghiệp hát.

Thế nhưng, con đường đến với nghề của Bạch Tuyết gặp nhiều áp lực. Trong đó, áp lực lớn lại đến từ phía… gia đình. Khi Bạch Tuyết muốn theo gánh hát, cha không đồng ý. Soạn giả nổi tiếng Điêu Huyền đã đến gặp cha của Bạch Tuyết để xin cho con gái đi theo đoàn nhưng gia đình cho rằng đi hát là “xướng ca vô loài”. Nhưng rồi cha đành chiều theo ý của con mình. Bạch Tuyết được soạn giả Điêu Huyền nhận làm con nuôi, cho nhập đoàn Kiên Giang.

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở Lá thắm chỉ hồng, cô đào chính tới trễ, Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi. Diễn xuất của Bạch Tuyết khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó, Bạch Tuyết được thử sức với những vở Kiếp chồng chung, Suối mơ rền áo cưới… Rồi bà được nghệ sĩ Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất. Với vở Tiếng hát Muồng Tênh, tên tuổi bà bắt đầu nổi.

Cá tính từ nhỏ nên Bạch Tuyết luôn có những quyết định không ngờ. Chẳng hạn, khi đang tạo được tiếng vang với những vai diễn ở đoàn Thống Nhất, Bạch Tuyết nghỉ để ôn thi tú tài. Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế để đi học.

   "Tôi luôn giữ tinh thần sống lạc quan, yêu đời, yêu người để tinh thần trẻ trung. Cách nhìn cuộc sống của tôi là: Biết ơn nhiều hơn là trách móc và tự thân đi lên, bởi vì đời sống này là lẽ vô thường. Thôi thì còn sống ngày nào hãy dâng hiến cho đời ngày ấy…”

 NSND-TS Bạch Tuyết

Cuối năm 1962, Bạch Tuyết gia nhập đoàn Bạch Vân. Năm 1963, Bạch Tuyết được trao huy chương vàng triển vọng Giải Thanh Tâm qua vai người vợ trong Tàn một kiếp hoa. Năm 1964, Bạch Tuyết về đoàn Dạ Lý Hương do ông bầu Xuân thành lập. Chính sân khấu này với sự cộng tác của hai soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng, nhiều vở diễn đã gắn liền với tên tuổi Bạch Tuyết cho đến hôm nay, trong đó vở Nỗi buồn con gái (tức Tần Nương Thất) đã mang lại cho Bạch Tuyết giải thưởng: Huy chương vàng Diễn viên xuất sắc giải Thanh Tâm năm 1965.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả.

Đến năm 1971, bà cùng Hùng Cường mở gánh hát Hùng Cường - Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: Trăng thề vườn Thúy, Má hồng phận bạc, Cung thương sầu nguyệt hạ. Gánh hát này được rất nhiều người hâm mộ, nhưng sau một thời gian thì ngưng hoạt động. Sau đó, bà chuyển sang học Luật.

Ở tuổi 40, nghệ sĩ Bạch Tuyết lại khiến nhiều người bất ngờ khi quyết định bước vào giảng đường đại học. Mấy năm sau, bà có bằng Cử nhân Ngữ văn. Năm 1988, Bạch Tuyết được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Cũng năm này, bà tốt nghiệp khoa Đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia, Bulgaria.

Năm 1995, Bạch Tuyết bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài “Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á”, trở thành tiến sĩ nghệ thuật cải lương đầu tiên của Việt Nam. Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND.

2.Ở tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng NSND Bạch Tuyết vẫn sống lạc quan, giữ được nét trẻ trung, thần thái an nhiên. Hiện bà sống ở quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, hằng ngày tự tay chăm sóc từng loại cây trái, hoa kiểng để thư giãn và tìm niềm an vui bên Phật pháp. Bà chia sẻ: “Tôi luôn giữ tinh thần sống lạc quan, yêu đời, yêu người để tinh thần trẻ trung. Cách nhìn cuộc sống của tôi là: Biết ơn nhiều hơn là trách móc và tự thân đi lên, bởi vì đời sống này là lẽ vô thường, có những chuyện mình không thể tự quyết được. Thôi thì còn sống ngày nào hãy dâng hiến cho đời ngày ấy…”.

Sống trong tinh thần lạc quan và bằng lòng dâng hiến cho đời, nên dù con cháu đang sống ở nước ngoài nhưng bà vẫn có nhiều cách để tìm niềm vui cho mình. Bà muốn sống ở quê hương, mỗi ngày làm việc, chia sẻ kinh nghiệm với các bạn trẻ yêu nghệ thuật dân tộc và gặp gỡ những người bạn mới, những mảnh đời khó khăn để đưa bàn tay nắm lấy họ, và đến khi chết cũng được nằm xuống trên chính quê hương mình. Bà chia sẻ: “Tôi là nghệ sĩ của dân tộc. Tôi muốn sống và qua đời như một người hát cải lương của Việt Nam”.

Gần đây, NSND-TS Bạch Tuyết sáng tác các tác phẩm sân khấu để tuyên truyền phòng, chống Covid-19. Điều ấy cho thấy trái tim bà luôn rung động trước những vấn đề của thời cuộc.

Bà luôn thích làm cái mới mặc dù bà ý thức rằng, mới chưa chắc hay nhưng dù sao cũng phải mới cái đã. “Nghệ thuật với tôi phải đổi mới, ngay chính từ cải lương cũng đã bao hàm nghĩa trong đó. Tôi nghĩ đổi mới có thể hay hoặc chưa hay nhưng nếu vì ngần ngại, e sợ mà không làm thì câu trả lời là sẽ không bao giờ hay. Hơn nữa, tôi luôn tin rằng cải lương luôn có những cách làm mới mình để tìm đến khán giả. Dù bước vào tuổi xưa nay hiếm nhưng tôi vẫn thích tìm kiếm cái mới trong nghệ thuật trên thế giới để nắm bắt, để lắng nghe..., từ đó có sự phản biện bằng chính bộ môn nghệ thuật của dân tộc”, bà nói.

NSND-TS Bạch Tuyết còn để lại dấu ấn khi là nữ nghệ sĩ cải lương đầu tiên xuất hiện trên sân khấu thể nghiệm với vai trò độc diễn trong những vở: Diễn kịch một mình, Hoàng hậu của hai vua của tác giả Lê Duy Hạnh. Soạn giả Hoa Phượng đã đặt cho bà biệt danh “Cải lương chi bảo”, nghĩa là bảo vật của nghệ thuật ca kịch cải lương Việt Nam.

THƯ HOÀNG

;
;
.
.
.
.
.