Miếu Bà nơi cửa biển

.

Hình thành và tồn tại hơn 400 năm trên gò đất bồi giữa lòng sông Cu Đê, cách cửa biển Nam Ô chừng 300m về phía tây, miếu Bà được người dân ở hai làng Thủy Tú, Nam Ô và cả quanh vùng tôn kính.

Miếu Bà Chúa Ngọc trên gò đất nổi lên giữa sông Cu Đê. Ảnh: H.H
Miếu Bà Chúa Ngọc trên gò đất nổi lên giữa sông Cu Đê. Ảnh: H.H

Đó là miếu Bà Chúa Ngọc, được xây dựng trên chính gò đất giữa lòng sông Cu Đê. Chưa ai biết rõ vì sao miếu được dựng ở nơi heo hút này và sự tồn tại của miếu được người dân nhiều đời sống nghề sông nước nơi đây kể cho nhau nghe như một địa danh tâm linh.

Cụ Trần Út, vị trưởng lão làng Nam Ô cho biết, từ nhỏ cụ đã được các vị cao niên trong làng kể về ngôi miếu này và theo những gì các cụ kể, ngôi miếu được xây dựng từ thời Chămpa có niên đại hơn 400 năm. Xưa kia, gò đất nơi có ngôi miếu thờ Bà Chúa sông Cu Đê chỉ là một hòn đá nổi lên giữa lòng sông do bão lớn. Theo thời gian, lũ từ thượng nguồn sông Cu Đê kéo theo đất đá lâu ngày hình thành nên gò đất như ngày nay.

Trước kia, làng chài Thủy Tú chủ yếu sống dọc bên bờ nam sông Cu Đê, mưu sinh bằng nghề chài lưới và chăn nuôi trâu, bò. Cuộc sống càng trở nên khó khăn, vất vả, buộc người dân phải tìm nơi trồng lúa và chăn nuôi gia súc mới. Gò đất nổi lên giữa sông như chiếc phao cứu sinh càng tiếp thêm sức mạnh cho những người muốn vượt sông sang bên bờ bắc để khai phá đất trồng trọt và chăn thả gia súc. Nhưng kỳ lạ là từ khi gò đất hình thành, người dân và gia súc đi qua đoạn sông này chết do đuối nước ngày càng nhiều hơn.

Sự hình thành của ngôi miếu đến nay dù không ai biết rõ, nhưng trong tâm tưởng người dân vùng đất sông nước nơi đây, ngôi miếu Bà ẩn chứa những câu chuyện huyền bí. Cụ Út kể: “Được tin nhiều người cùng bầy gia súc chết do đuối nước, người dân làng Thủy Tú hết sức hoang mang và không dám vượt sông. Thế rồi, một người phụ nữ trong làng bỗng nói rằng, người dân làng Thủy Tú phải xây dựng một ngôi miếu thờ Bà thì mới bình an vô sự.

Dân làng dù bán tín bán nghi nhưng vẫn cất công dựng miếu thờ và đặt tên là miếu Bà Chúa sông Cu Đê. Từ đó, dân làng Thủy Tú - Nam Ô không còn chết do đuối nước nữa; cuộc sống trở nên bình an, vô sự. Làng chài từ đó mà phát triển”.

Chuyện xưa nhuốm màu huyền bí. Đi tìm sự thật, chúng tôi tìm đến nhà cụ Lê Lục, người được dân Thủy Tú kính trọng và suy tôn như một cuốn lịch sử sống của làng. Ngoài 90 tuổi, đôi bàn tay run run lật tìm những trang sách chữ Hán viết về điển tích Bà Chúa Ngọc, cụ Lục cho biết: “Bà Chúa Ngọc được gọi là Po Yan Inư Nagar (thường gọi Po Nagar) là thần Mẹ xứ sở. Bà là người tạo dựng nên vương quốc, người đã giáng sinh giữa mây trời và bọt biển. Bà có 97 chồng, sinh được 38 người con.

Bà là người tạo ra muôn loài trên trái đất. Bà còn tạo ra cây trầm hương và sản sinh nghề trồng lúa nước ngày nay. Không những vậy, bà mang mưa thuận gió hòa cho mùa màng, thuận lợi cho xứ chài Thủy Tú đánh bắt cá trên vùng hạ lưu sông Cu Đê. Người Chăm cho rằng, Po Yan Inư Nagar chính là nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của thần Siva, còn có tên là thần Bhagavati”.

Cụ Lục cho biết thêm: “Cách đây hơn 400 năm, người dân xứ Thủy Tú (các làng Thủy Tú, Nam Ô ngày nay) rất nghèo khổ, cuộc sống chủ yếu bằng nghề chài lưới bên con sông Cu Đê hung dữ nên hằng năm có rất nhiều người chết do nước lũ làm lật thuyền. Sau khi được Bà “hiện linh chỉ bảo”, người dân nơi đây đã cùng nhau quyên góp tre, nứa xây dựng nên ngôi miếu thờ bà trên chính gò đất giữa lòng sông này”.

Lúc đầu, ngôi miếu lưng quay về phía thượng nguồn sông Cu Đê, mặt hướng ra cửa biển Nam Ô. Khi thấy chúng tôi thắc mắc về hướng của ngôi miếu, cụ Lục liền giải thích: “Sở dĩ ngôi Miếu có hướng như vậy vì theo truyền thuyết của người Chăm, Bà Chúa Ngọc là vị thần được sinh ra từ thân cây Trầm hương, người xuôi từ sông ra biển để đi khắp muôn phương. Do đó, hướng của miếu được xây như vậy nhằm nhắc nhở thế hệ sau này nhớ về nguồn gốc và công ơn của Bà Chúa nước. Ngoài ra, cách xây dựng của ngôi miếu còn thể hiện tâm đức của người dân làng chài, mong sự che chở của Bà để tránh sự tàn phá của thiên nhiên, cầu mong sự bình an, mùa vụ tốt tươi”.

Đến thời vua Gia Long, ngôi miếu được dựng lại bằng gạch theo lối kiến trúc vòm cuốn. Mái miếu được tạo thành bởi 3 tầng, kiểu mái cong, các đầu đao vút lên, lợp ngói liệt, có đường cổ diềm giả. Vua sắc phong cho bà là “Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần”. Trải qua thời gian, ngôi miếu cũ xuống cấp trầm trọng. Năm 1980, với sự quyên góp của dân làng Thủy Tú, ngôi miếu đã được tu sửa lại và xây dựng bằng vôi vữa nhưng vẫn giữ lối kiến trúc mang phong cách thời Lê (thế kỷ XVI- XVII). Đặc biệt, trên nóc miếu và các cột đá được gắn các họa tiết hoa văn với cặp rồng đá độc đáo. Trên tường của miếu được khắc chữ Hán cổ với nhiều hình thù động vật kỳ dị.

Nằm trên gò đất đá nhỏ nổi lên giữa lòng sông Cu Đê, miếu Bà Chúa Ngọc không những là một di tích lịch sử mà còn thể hiện cho sự giao lưu văn hóa giữa người Chăm với người Việt.

HOÀNG HUY

;
;
.
.
.
.
.
Liên kết hữu ích