Lại nhớ sắc màu hoa Tigon

.

Nhắc về thi sĩ Thâm Tâm, ai cũng dễ liên tưởng đến một người con gái với cái tên T.T.KH đầy bí ẩn, đã đi vào thơ ông làm lộng lẫy một nỗi buồn, chon von một con đường thơ ca cô đơn và đầy nỗi niềm trắc ẩn.

1. Không phải đến khi thi sĩ Thâm Tâm vĩnh biệt cuộc đời, từ nửa thế kỷ nay, người ta mới nói về thơ ông và những huyền thoại tình yêu có một không hai trong làng thơ Việt lúc bấy giờ. Ngay vào những năm cuối thập niên 30, đầu thập niên 40, giữa lúc cao trào thơ mới đang hồi rực rỡ trên thi đàn, bỗng xuất hiện một Thâm Tâm - Nguyễn Tuấn Trình lấp lánh sắc màu hoa Tigon u buồn, lẻ loi một cõi thơ riêng với một tình yêu đắm say và dang dở. Thâm Tâm đã đi xa nửa thế kỷ, nhưng bất cứ lúc nào nhắc về thi sĩ, ai cũng dễ liên tưởng đến một người con gái với cái tên T.T.KH đầy bí ẩn, đã đi vào thơ ông làm lộng lẫy một nỗi buồn, chon von một con đường thơ ca cô đơn và đầy nỗi niềm trắc ẩn.

Màu hoa Tigon đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang

Đã không biết bao nhiêu giấy mực, sục sạo tìm kiếm cho ra cái nhan sắc của người con gái ký tên T.T.KH dưới những bài thơ đăng trên báo Tiểu thuyết Thứ Bảy và những bài thơ hồi âm của Thâm Tâm. Nhưng mọi giả thuyết vẫn là những giả thuyết.

Dù sau này, khi nhà thơ đã qua đời, cụ Nguyễn Vỹ (thi sĩ đồng thời với ông) đã chứng minh trong những dòng hồi ký của mình về cái tên bí ẩn ấy là ai, nhưng có vẻ như người ta cứ muốn cái tên T.T.KH kia mãi hư ảo trong khói sương, đẹp nao lòng trong những câu thơ buồn của thi sĩ. Suy cho cùng, mọi cuộc tìm kiếm dường như cốt là để phụ họa cho cái nhan sắc ấy đã bí ẩn lại càng thêm bí ẩn, đã đẹp lại càng lộng lẫy hơn.

Giã từ những câu thơ buồn, cũng như nhiều nhà thơ khác thuộc thế hệ của mình, nghe theo tiếng gọi sơn hà, Thâm Tâm đã có mặt trong lớp những văn nghệ sĩ đầu tiên bước vào cuộc trường chinh kháng chiến chống Pháp. Những năm tháng làm báo ở mặt trận biên giới phía Tây - Bắc cùng nhà thơ Vũ Cao, một cơn bệnh đột biến quái ác đã cướp mất cuộc đời tài hoa thi sĩ, bỏ lại sự nghiệp văn chương dang dở.

Gia tài văn học ông để lại không nhiều, một số vở kịch và truyện dài, truyện ngắn và thơ đã đăng trên các tờ báo trước đó. Mãi đến năm 1988, NXB Văn học mới tập hợp xuất bản tập thơ Thơ Thâm Tâm độ chừng vài chục bài. Ít ỏi là vậy, nhưng với một thi tài độc đáo, tác phẩm của ông đã và sẽ sống mãi với thời gian.

2. Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12-5-1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương) trong một gia đình nghèo, đông con. Thời niên thiếu, ông ăn học ở quê nhà; bước vào tuổi thanh niên, ông và gia đình sinh sống ở Hà Nội. Nhờ năng khiếu hội họa và học ở nhà trường, Thâm Tâm bắt đầu cuộc đời vẽ vời kiếm sống. Cùng thời gian này, thơ ông đăng trên nhiều tờ báo: Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Năm...

Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nghèo túng, ông đã nhìn cuộc đời với nỗi buồn vây bủa. Tuy vậy, nỗi buồn như sự giằng xé, để rồi với giọng điệu can trường, lúc nào thơ ông cũng thể hiện khao khát dấn thân. Cũng cốt là để giải tỏa bớt những u uất, những mong hé mở một chân trời, những bài thơ theo thể Hành đầy khí vị cổ xưa của ông ra đời vì vậy đã chinh phục trái tim người đọc suốt nhiều thế hệ. Và một trong những đỉnh thi sơn cao vời ấy, có lẽ Tống biệt hành là đỉnh cao nhất. Chính từ đây, ông nghiễm nhiên ngồi chung chiếu trong thi nhân Việt Nam. Cái chí cả Tráng sĩ nhất khứ hề như một thứ men say cho thi sĩ bay lên nhìn ra một chân trời rộng mở.

Đưa người, ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
....

Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng
...

Người đi! ừ nhỉ người đi thật
Mẹ già coi như chiếc lá bay...

3. Tưởng nhớ Thâm Tâm, nhắc lại một ít khí vị Tống biệt hành. Từ những cảm xúc cao đẹp ấy, ta hiểu ông đến với kháng chiến như một sự khai phóng được mở toang lồng ngực hít thở, hòa nhập vào thác lũ triều biển nhân dân trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Ý thức công dân và trái tim của một thi sĩ đầy nhạy cảm giữa lúc dân tộc đang dầu sôi lửa bỏng, đã thôi thúc thi sĩ trở thành người cầm súng xông pha chiến trường. Thời gian này, ông công tác ở Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân ngày nay). Một số thơ văn của ông trong giai đoạn này đánh dấu một quan điểm sáng tác mới gần gũi với nhân dân và công cuộc kháng chiến.

Tiếc thay tài năng một thi sĩ đương độ ba mươi, ông ra đi để lại bao tiếc thương cho đồng đội, nhất là nền thơ ca Việt Nam mất đi một thi tài (ông mất vào ngày 18-8-1950).

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhớ đến nhà thơ, bất cứ ai cũng đều có thể cất lên: Đưa người, ta không đưa sang sông... Cuộc đời và sự tưởng vọng một tài thơ chỉ ngần ấy, nhưng trong mọi trường lớp ở khắp mọi nơi, Tống biệt hành là một áng thơ đã khảm khắc vào tâm hồn tất cả học sinh nhiều thế hệ.

Và đâu đó, bên chuyện kể về những tình yêu huyền thoại, về một thời thơ ca vang bóng, người ta ít ai lại không nhớ đến cái sắc màu hoa Tigon - một huyền sử ca lấp lánh cái đẹp - một nỗi buồn khôn nguôi chuyện lứa đôi, mà chính thi sĩ là người gieo hạt giống mọc đến vô tận những mùa sau: Thôi em hãy giữ cành hoa úa. Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời.

NGUYỄN NHÃ TIÊN

;
;
.
.
.
.
.