Vị tiến sĩ "tiết trực, tâm hư"

.

Cuộc đời hơn 80 năm của TS. Hồ Trung Lượng cho thấy ông là một nhà nho mẫu mực với phẩm hạnh của một bậc chính nhân quân tử “tiết trực, tâm hư”.

Tiến sĩ Hồ Trung Lượng (ảnh trái) và cổng làng Mậu Hòa quê ông.
Tiến sĩ Hồ Trung Lượng (ảnh trái) và cổng làng Mậu Hòa quê ông.

Theo gia phả tộc Hồ Trung, làng Mậu Hòa, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên (tỉnh Quảng Nam), Hồ Trung Lượng là con thứ trong một gia đình đông anh em, thân phụ là nho sĩ và là nhà giáo. Nhà nghèo, lại ít ruộng đất nên cha mẹ ông phải làm việc vất vả để nuôi các con ăn học. Không phụ lòng cha mẹ, vốn có tư chất thông minh, chăm chỉ và hiếu học, lại được cha tận tâm dạy dỗ, ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh khối lượng lớn tri thức đương thời. Trưởng thành từ Trường Giáo Duy Xuyên, Trường Đốc Quảng Nam, năm 1891, ông đỗ Cử nhân tại Trường thi Thừa Thiên. Năm sau, lúc tròn 32 tuổi, ông đỗ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Nhâm Thìn dưới triều Thành Thái, được triều đình phong tước “Tứ Thiện Đại Phu”.

Suốt 24 năm trên đường hoạn lộ, Hồ Trung Lượng lần lượt nắm giữ các chức vụ: Thừa biện Bộ Lễ, Tri phủ Tư Nghĩa - Quảng Ngãi, Đốc học Quảng Nam thăng Hồng lô tự thiếu khanh (hàm Chánh tứ phẩm), rồi giữ chức Đốc học Bình Định, sau chuyển về triều đình Huế thăng chức Thị lang Bộ Lễ (hàm Chánh tam phẩm). Tại nhiều khoa thi do triều đình tổ chức, ông được cử làm Chánh phó chủ khảo kỳ thi Hương tại các trường thi Nghệ An, Thanh Hóa.

Năm 1916, sau cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân thất bại, thấy việc triều chính ngày càng mục nát, ông cáo quan về hưu với chức Tham tri hàm (Tòng nhị phẩm); được ít lâu, triều đình truy phong chức Thượng thư (Chánh nhị phẩm).

Những năm tháng ấy, dựa vào tài học uyên thâm, đức độ sáng ngời của một nhà nho, Hồ Trung Lượng hoạt động tích cực trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nhiều năm làm đốc học, tham gia làm Chánh phó chủ khảo nhiều kỳ thi, góp phần đào tạo, rèn đúc hiền tài cho đất nước, khơi dậy lòng hiếu học của mọi người.

Cuộc đời làm quan thanh liêm của ông có một sự kiện đặc biệt mà giới sĩ phu đương thời rất kính phục. Đó là vào năm 1905, Trường thi Bình Định mở khóa khảo hạch chuẩn bị kỳ thi Hương vào năm sau do ông làm chủ khảo. Lúc bấy giờ, có 3 chí sĩ yêu nước người Quảng Nam là Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, trên đường vào Nam để tìm hiểu tình hình phục vụ mục đích cứu nước. Nghe có khoa thi này lúc qua Bình Định, muốn tuyên truyền trong hàng ngũ sĩ tử để thức tỉnh họ về nhiệm vụ với nước nhà, 3 ông bèn nộp đơn ứng thí dưới tên giả là Đào Mộng Giác. Họ Đào là họ lớn ở Bình Định nổi tiếng chốn khoa trường, nên 3 chí sĩ yêu nước Quảng Nam lấy họ Đào để ghi vào bài thi nhằm tránh sự truy cứu của hội đồng thi và quan lại sau này.

Tại trường thi, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng làm bài Lương ngọc danh sơn phú, Phan Châu Trinh làm bài Chí thành thông thánh, nội dung không liên quan đầu đề, tác giả chỉ nói chuyện yêu nước, tự hào về quá khứ và khả năng của dân tộc, bài xích việc học, việc thi hủ lậu lúc bấy giờ, kêu gọi quan lại treo mũ từ quan, thư sinh vứt bút đứng lên cứu nước: Thượng tự quan lại, hạ cập chư sinh. Đầu bút nhi khởi, quải quan nhi hành (Trên từ quan lại, dưới đến các anh. Vứt bút mà đứng lên, treo mũ mà hành động).

Lúc chấm bài, hội đồng thi kinh ngạc tâu về triều đình, hai bài thơ, phú lọt ra ngoài được lưu truyền rộng rãi, gây dư luận sôi nổi và ảnh hưởng lớn trong giới nho sĩ.

Bấy giờ, trong hội đồng thi, chủ khảo Hồ Trung Lượng biết rõ tác giả của hai bài thi này, nhưng ông đã tìm cách lờ đi. Qua việc này, 3 chí sĩ Quảng Nam rất kính phục nhân cách và đạo đức của ông vì đã thấy được sự che chở và giúp đỡ của ông mà không hề sợ liên lụy.

Hồ Trung Lượng là người can trường, có nghĩa khí lớn, không chịu luồn cúi trước triều đình ươn hèn và ngoại bang xâm lược. Hưởng ứng phong trào yêu nước của Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, đến năm 56 tuổi, ông xin từ quan về sống ẩn dật tại làng quê An Dưỡng (xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên ngày nay) mở trường dạy học, bồi dưỡng tinh thần yêu nước và lập những phong trào thơ ca, văn nghệ để khơi dậy lòng yêu nước của người dân. Ông tạ thế năm 1942 tại quê nhà, hưởng thọ 83 tuổi.

Ông đã đem hết trí tài giúp nước, giúp dân, đem tài học mà rèn cặp cho lớp trẻ. Khi lui về trí sĩ, ông sống thân ái với mọi người, tiếp tục đem tài học góp phần xây dựng quê hương.

Theo gia phả tộc Hồ Trung, sự nghiệp văn học của ông rất lớn. Ông sáng tác nhiều thơ, phú, đối, liễn nay đã thất truyền, chỉ còn lưu lại rất ít.

Khi ông Trịnh Thống ở Nam Phước đỗ tú tài toàn phần Đông Pháp, ông có câu đối khen ngợi: Tây thiên tú khí kim y tích/ Đông Pháp tài danh bán phục toàn (Làng Phụng Tây khí tốt tích tụ từ xưa cũng như nay, có người giỏi đậu tú tài Đông Pháp bán phần rồi toàn phần).

Khi một người bạn đồng liêu có con chết, ông chia buồn: Khải ưng hoàn tạo hóa, hoàn triều đình, tứ phiệt thượng lưu dư, vọng xá cô tâm thiên vạn lý/ Dương diệt tố trung thần, tố hiếu tử, phụ dư tài ức hậu, ủy liêu lão lụy nguyệt tam thu. Trịnh Chơn Đỗ Xuân Nghinh dịch: Những ưng rảnh tạo hóa, rảnh việc triều đình, dòng tướng trước để dư, trong chốn trẻ buồn ngàn vạn dặm/ Cũng muốn tỏ tôi trung, tỏ tình con thảo, gởi thơ tài gắng hậu, nương lều già khóc suốt ba thu”.

Cuộc đời hơn 80 năm của TS. Hồ Trung Lượng là cuộc đời của một nhà nho mẫu mực, một người xuất thân nghèo khó, trưởng thành từ dân dã, lúc còn trẻ đem hết tài năng, tâm huyết và đạo đức để cống hiến cho đời, không màng công danh phú quý. Khi triều đình ươn hèn, bất lực, ông từ quan để giữ tròn khí tiết, lúc về hưu thì sống thanh bần lạc đạo. Không có phẩm hạnh của một bậc chính nhân quân tử “tiết trực, tâm hư” (thẳng thắn và đơn giản - ĐNCT) thì không thể được như vậy.

NGUYỄN THỊ TUYẾT

;
;
.
.
.
.
.