Vạn Lộc và cõi yên bình "Miền mây trắng"

.

Miền mây trắng là tập thơ mới nhất của Vạn Lộc (NXB Hội Nhà văn), gồm 62 bài (lục bát, tự do, thất ngôn bát cú), hoàn toàn là những cảm xúc và ý nghĩ mới đầu tưởng chừng rất riêng tư, nhưng vẫn vươn tới cái chung, trong tâm trạng bao quát của nghĩa tình nhân thế và số phận của con người.

Miền mây trắng là tập thơ mới nhất của Vạn Lộc (NXB Hội Nhà văn), gồm 62 bài (lục bát, tự do, thất ngôn bát cú), hoàn toàn là những cảm xúc và ý nghĩ mới đầu tưởng chừng rất riêng tư, nhưng vẫn vươn tới cái chung, trong tâm trạng bao quát của nghĩa tình nhân thế và số phận của con người.
Miền mây trắng là tập thơ mới nhất của Vạn Lộc (NXB Hội Nhà văn), gồm 62 bài (lục bát, tự do, thất ngôn bát cú), hoàn toàn là những cảm xúc và ý nghĩ mới đầu tưởng chừng rất riêng tư, nhưng vẫn vươn tới cái chung, trong tâm trạng bao quát của nghĩa tình nhân thế và số phận của con người.

Vạn Lộc là tác giả của 8 tập thơ với hàng ngàn câu thơ mà hầu hết thể hiện những trăn trở của người phụ nữ về tình yêu và những đa đoan trong đời sống. Song, ở Miền mây trắng, phải chăng đó là nỗi đau đớn ngậm ngùi, cô đơn thương nhớ, mong cầu miên viễn? Là xa cách nghìn trùng khi người chồng đi về miền vô ưu: Để bây giờ thiên lý/ Cách biệt tự quan san/ Em ôm tình vạn cổ/ Anh về chốn non ngàn (Cánh chim miền vô ưu). Dẫu có tránh né thì hai chữ “nước mắt” vẫn phải tự nhiên lên tiếng: Mà nước mắt vẫn ngập tràn nước mắt/ Xin anh hãy về dù giữa giấc mơ thôi (Anh hãy về trong giấc mơ em).

Trong nỗi nhớ thương ấy, bên cạnh ký ức về những ngày tháng mặn nồng, hạnh phúc cùng người bạn đời: Những ngày cuối đời anh thường nắm tay em/ Run run những ngón guộc gầy/ Những ngón tay chừ không còn hát/ Phiêu bồng trên tóc em êm đềm (Khắc khoải), còn là hình ảnh của hai miền quê hương Huế - Quảng như mối tơ duyên gắn bó giữa tác giả với một nửa linh hồn chung thủy yêu thương: Em làm dâu Huế ngày xưa/ Hải Vân đôi nửa nắng mưa lạ lùng/ Núi heo hút đèo mù sương/ Hai quê cách chỉ quãng đường mà xa, để rồi: Sáu mươi năm chung một nhà/ Sông Bồ lắng nước phù sa Thu Bồn/ Chiều chiều mây trắng đầu non/ Mạ Huế mẹ Quảng thương con ngóng chiều (Niệm từ).

Theo nhà thơ Nguyễn Minh Hùng, xưa nay, nước mắt khóc chồng trong thơ không ít, nhưng để lại ấn tượng sâu đậm không nhiều. Thơ viết về sinh ly tử biệt, nhất là với người bạn đời thủy chung luôn long lanh nước mắt và rất chân thành. Gần một thế kỷ trước, Tương Phố khóc chồng da diết và khóc nổi tiếng trong Tái tiếu sầu ngâm (Tạp chí Nam Phong số 147, tháng 2-1930); hoặc trong bài Nỗi cô đơn, sáng tác năm 1953, Nguyễn Thị Bính làm thơ khóc chồng (Đặng Phúc Thông) cũng được nhiều người nhắc đến. Nhưng để so sánh giữa những giọt - lệ - thơ ấy với nhau là không nên, không công bằng. Có nước mắt nào hơn nước mắt nào? Vạn Lộc đi sau gần một thế kỷ, dĩ nhiên phải viết khác hơn, người đọc yêu cầu cao hơn mà không thể chỉ dừng lại ở niềm cảm thấu của chuyện tình nghĩa chia ly. Cụ thể như trong Giấc mơ xuân tàn, chữ nghĩa quen nhưng thi ảnh được dệt khéo và thật: Tơ buồn chẳng thiết tha đan/ Em như con nhện dệt tang đời mình/ Góc sầu giăng lối bình minh/ Xót xa viết một chữ tình không anh...

Cũng theo Nguyễn Minh Hùng, điều lạ là, mà phải đọc kỹ (vì tác giả viết nhiều quá, để cảm xúc tự nhiên chi phối quá, nên khó phát hiện) mới thấy những câu thơ rất khác so với nhiều thơ Vạn Lộc đã in, ngay từ nhan đề Anh đã cỏ mai rồi em cũng cỏ: Mưa gió trần gian bây giờ rất thật (…) / Anh bây giờ đã gần hơn với cỏ/ Đã tự lòng mình nghe cỏ rút ruột xanh/ Và anh cũng hiểu nỗi niềm của gió/ Hoang lạnh muôn chiều khúc hát thiên thanh. Với Miền mây trắng, Vạn Lộc một lần “soi mình vào hạt lệ” để phát hiện ra tiếng nói tâm hồn qua những câu thơ giàu xúc cảm.

Nhà thơ Bằng Việt cho rằng, các bài thơ khóc chồng của Vạn Lộc ở Miền mây trắng đều có ý tiềm ẩn một chữ “ngộ”, nên ngay cả khi đi tới tâm trạng bi thương và đau buồn nhất, bà vẫn giữ được cốt cách ấm áp, bình tĩnh trong cách thể hiện cân bằng và hài hòa giữa cảm xúc bi quan và lạc quan, biết phân định liều lượng cần và đủ giữa các hiện tượng ngẫu nhiên và tất nhiên, tạm bợ và vĩnh cửu. Càng về cuối đời, thơ Vạn Lộc càng gắn với Phật pháp. Trong Miền mây trắng, Vạn Lộc muốn mời người bạn đời của mình từ chốn hư vô trở lại cõi dương thế, nương ánh Thiền cùng mình.

Vạn Lộc khép lại tập thơ Miền mây trắng với ý thức hoàn tất một chu trình nhân văn cao đẹp, khi kết hợp hài hòa cảm xúc trực giác trong thơ với nhận thức của mình về khái niệm Sắc - Không. Vì thế, tuy tập thơ hoàn toàn là những cảm xúc và ý nghĩ mới đầu tưởng chừng như rất riêng tư, nhưng vẫn vươn tới cái chung, trong tâm trạng bao quát của nghĩa tình nhân thế và số phận của con người.
Miền mây trắng, với Vạn Lộc, như một chốn yên bình mà nhà thơ tìm đến để tự yên ủi, vỗ về mình bằng những sợi tơ ký ức yêu thương, xót xa mà ngọt ngào… Điều đó nhanh chóng đem đến sự rung cảm, sẻ chia cho những tâm hồn đồng điệu yêu thơ và yêu chân - thiện - mỹ.

TRẦN TRUNG SÁNG

;
;
.
.
.
.
.