Vị danh nhân "Nam Trung hiếm có"

.

Năm 2014, Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành cuốn “Phạm Phú Thứ toàn tập” dày 2.152 trang, giới thiệu trọn vẹn tác phẩm “Giá Viên toàn tập”, trong đó có chép các sớ tâu của Tiến sĩ Phạm Phú Thứ thể hiện đạo đức và nhân cách của một danh nhân đất Quảng.

Từ chối nhận chức vụ cao

“Giá Viên toàn tập” quyển số 14 cho hay: Năm Tự Đức thứ 18 (1865), Tiến sĩ Phạm Phú Thứ được thăng bổ chức thự Thượng thư Bộ Hộ. Đây là chức vụ rất quan trọng, quản lý chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc, điều hòa nguồn của cải quốc gia. Ngày nay Thượng thư Bộ Hộ tương đương Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cụ Phạm dâng ngay sớ tâu ngày 16-11 từ chối trọng trách này: “Thần được nghe sắc mạng hết sức sợ hãi, xét rằng chức quan Thượng thư Bộ Hộ, bên trong trù tính kinh phí hằng năm của quốc gia, bên ngoài nắm giữ sự trừ bị nơi biên giới, mức co giãn, phân ly có quan hệ đến lợi ích quốc gia, những quốc kế đó liên hệ đến dân sinh, nếu không phải là bậc cựu đức, thì cũng phải là người có tài năng thông suốt, lý lẽ mới có thể xứng đáng với sự tuyển dụng đó”. 

Các trang đầu của “Giá Viên toàn tập” và chân dung Tiến sĩ Phạm Phú Thứ (1821-1882).
Các trang đầu của “Giá Viên toàn tập” và chân dung Tiến sĩ Phạm Phú Thứ (1821-1882).

Tiếp đó, cụ Phạm ca ngợi những “bầy tôi có tài năng lão luyện” như Nguyễn Bá Nghi, Vũ Trọng Bình, Trần Tiễn Thành; những “viên chức có thanh vọng nổi tiếng xưa nay” như Phan Thanh Giản; những “vị quan lớn sáu bộ trước đây” như Vũ Đức Nhu, Phan Huy Vịnh. Rồi cụ khiêm cung tự nhận xét mình: “Thần đây tài năng khí độ rất kém, kinh nghiệm còn ít, lại được ơn đào tạo chu đáo, bổn tâm của thần không dám khinh thường quan vị, nhưng mà học kém tài hèn, rất sợ làm việc vấp váp”.

Tác giả sớ tâu còn dẫn chứng mình thua kém những viên chức đồng liêu trong ngoài về tài năng quản lý (như Nguyễn Chánh) hoặc về thông suốt lý lẽ (như Thân Văn Nhiếp) và cho rằng nếu bản thân được “lạm hưởng ân vinh, xếp vào hàng chính khanh, nắm giữ vấn đề quốc khóa dân sinh, dù lòng ngu muội đến đâu cũng phải hổ thẹn”. Không chỉ vậy, cụ còn mạnh dạn đề xuất nhà vua: “Xin thu hồi ân điển triều đình, thương cho sự ngu muội của thần, hoặc cho cùng được làm trong bộ đó, hoặc dời đi giữ chức vị ở tỉnh Bình Phú, được nhường lại cho người hiền tài”. Theo cụ, “như thế may mắn tránh được sự hiềm nghi vô căn cứ”.

Cuối bản tấu, cụ Phạm bộc bạch: “Đó là tấm lòng thành thực của thần, không dám vẽ vời dối trá, cũng không dám hy vọng cầu cạnh chức vị bên ngoài, để mưu đồ yên thân, kiếp này mưu toan báo đáp còn dài, tấm lòng nhỏ mọn, kính xin soi xét”.

Xin được chép ra đây châu phê của vua Tự Đức về bản sớ tâu nói trên: “Khanh giữ chức tại khoa đạo đã lâu, làm việc cũng mẫn cán, so với Phan Tam Tỉnh hơi giống nhau, với Tôn Thất Dao thì đã trễ, đó cũng là từ từ lên từng bậc một, không phải là lạm. Nay các quan chức phần nhiều khiếm khuyết, nếu lại cứ câu nệ, thì người nào có thể làm được”. Vua yêu cầu: “Khanh nên tuân mạng làm hết chức vụ, đừng có nhân nhượng vô ích, lòng khanh quyết nhiên không bao giờ dám cẩu thả làm điều phi pháp”. Đồng thời, vua nhẹ nhàng “phê bình” nhược điểm của một bầy tôi trung tín: “Nết nể nang khó xử, đó là một cái kém, phải nên đổi đi... Trẫm đây đương cái trách nhiệm vua và thầy dạy, xấu tốt không thể không rầy la thẳng thắn, để thành nhân tài, khanh nghĩ có đúng không? Khâm thử”.

Đúng là, nhà vua quá hiểu tâm tính của “cán bộ” nên mới có được những lời phê thấu lý đạt tình như vậy.

Nhường vị thứ trên sân chầu

Dưới triều Nguyễn, vào các buổi triều nghi quan trọng của triều đình, các quan phải đứng xếp hàng ở sân Đại triều nghi (sân chầu) theo cấp bậc và thứ hạng từ nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Thứ tự chỗ đứng trên sân chầu thể hiện vị thế của các quan trong triều. Ba năm sau “sự kiện” xin từ chối trọng trách thự Thượng thư Bộ Hộ, cụ Phạm Phú Thứ đã thể hiện hành động khiêm cung là xin nhường vị thứ (nhượng ban) trên sân chầu cho đại thần Trần Tiễn Thành.

Theo “Giá Viên toàn tập” quyển số 15, trong sớ tâu ngày 28-5, Tự Đức thứ 21 (1868), cụ nhấn mạnh đức khiêm cung của người quân tử: “Lễ nhường là đạo lý của nước, hòa mục là cái tượng của việc sắp đặt trong triều. Kính Hoàng thượng lấy lễ sai khiến bề tôi, tiếp đãi kẻ dưới thì nghĩ đến khiêm cung”. Cụ cũng không quên nhắc lại tấm gương ngày trước: Cần chính Đại học sĩ Trương Đăng Quế trong chỗ đứng ban chầu thường nhường cho Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn.

Cụ Phạm tự nhận thấy mình không xứng đáng được đứng ở vị trí cao: “Thần đối với chức chính khanh các bộ là kẻ hậu tiến, nhớ đến việc giữ chức quan nghĩ về pháp luật thì việc tự chăn dắt mình vốn cũng đã tự biết; huống lỗi lầm chưa có kỳ hạn chuộc, phải nên lẳng lặng chờ, há dám có một mảy may a tòng theo bè đảng đem ý xằng mà tâu xin”. Cụ bộc bạch: “Cùng là hàng bề tôi nhưng thần vì thân tật tội được ở hàng bên hữu. Xưa nói rằng: người khổ không tự biết. Thần trộm rất xấu hổ vậy”. Cụ ca ngợi đại thần Trần Tiễn Thành công lao khó nhọc và đề đạt nhà vua: “Chuẩn cho bề tôi Trần Tiễn Thành đứng bên hữu mà thần đứng sau”. Cụ lý giải: việc này “khiến cho rõ được giáo hóa về sùng nhượng của triều đình nhà Ngu được lưu truyền ngoài xa xôi, mà thần cũng may mắn thoát khỏi sự chê trách là tên người Hán gom củi đứng ở trên”.

Ngày nay, nghe lại những câu chuyện về đức khiêm cung của Tiến sĩ Phạm Phú Thứ - “một nhà Nho chân chính, một trí thức tiêu biểu cho những truyền thống tốt đẹp của dân tộc” (lời GS Đinh Xuân Lâm), các thế hệ hậu sinh càng thêm trân trọng nhân cách cao cả của một vị danh nhân người Quảng từng được vua Tự Đức đánh giá là “Nam Trung hiếm có”.

VÂN TRÌNH

;
;
.
.
.
.
.