.

BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TẠI ĐẠI HỘI LẦN THỨ XIX ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ

.

Từ Đại hội lần thứ XVIII (12-14/2/2001) đến Đại hội lần thứ XIX là quãng thời gian đặc biệt quan trọng trong lịch sử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng. Đây là thời kỳ bứt phá đi lên của Đảng bộ và nhân dân thành phố, bằng trí tuệ và công sức của chính mình, kế thừa những thành quả các nhiệm kỳ qua, với sự hỗ trợ có hiệu quả của Trung ương và sự phối hợp của các địa phương trong cả nước; là thời kỳ thành phố đạt được nhiều thành tựu quan trọng và rõ nét trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, so với tiềm năng và yêu cầu phát triển của một đô thị loại I cấp quốc gia trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, những thành tựu trên cũng chỉ là cơ sở ban đầu cho mô hình phát triển thành phố trong tương lai.

Với tinh thần trách nhiệm cao trước nhân dân thành phố trên chặng đường phát triển mới, Đại hội XIX của Đảng bộ thành phố có nhiệm vụ tập trung đánh giá những ưu khuyết điểm trong công tác lãnh đạo nhiệm kỳ qua, phân tích đúng tình hình thành phố những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó định ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cho chặng đường sắp tới nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng bộ, toàn quân và toàn dân, từng bước xây dựng Đà Nẵng thành một trong những trọng điểm phát triển của đất nước, góp phần xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên như tinh thần Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị đã đề ra.

Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT TÌNH HÌNH NHIỆM KỲ 2001-2005

I. BỐI CẢNH THÀNH PHỐ TRONG 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XVIII

1. Những thuận lợi
Những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ 2001-2005 đã khẳng định hướng đi đúng đắn của thành phố, có ý nghĩa tạo đà cho bước phát triển năng động, mạnh mẽ trong 5 năm qua. Vị thế của Đà Nẵng được nhìn nhận rõ rệt hơn trong tương quan các khu vực phát triển của đất nước và trong thế chiến lược của tiểu vùng Mê Kông. Đặc biệt, hai sự kiện quan trọng diễn ra trong năm 2003 đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thành phố, đó là việc Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Đà Nẵng là đô thị loại 1 cấp quốc gia; và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng vào làm việc với thành phố, ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Sự ổn định về chính trị, không khí đồng thuận xã hội, tình cảm gắn bó tự hào với quê hương và tinh thần năng động sáng tạo là nét nổi bật của tình hình thành phố, tác động tích cực đến việc thực hiện những chủ trương lớn của đảng bộ, hướng vào mục tiêu chung xây dựng và phát triển thành phố giàu mạnh, văn minh.

2. Những khó khăn, thách thức Tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều diễn biến phức tạp khó lường. Trong nước, giá các mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu tăng, thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp đã có ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Đối với thành phố, việc huy động nguồn lực cho phát triển vẫn còn hạn chế, công tác quản lý đô thị còn nhiều bất cập; đội ngũ cán bộ thiếu và không đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu.
Thành phố đang đứng trước những thách thức giữa yêu cầu phát triển trên quy mô lớn, tốc độ nhanh, chất lượng cao với hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn thấp, công nghệ chậm phát triển; giữa yêu cầu tạo sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với những hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường, chất lượng nguồn nhân lực và trình độ quản lý chưa mang tính chuyên nghiệp; giữa yêu cầu đô thị hóa với việc đảm bảo việc làm, ổn định đời sống các tầng lớp nhân dân; giữa yêu cầu phát triển cân đối kinh tế với văn hóa, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế.

Trong bối cảnh trên, thành phố tiếp tục giữ vững nhịp độ phát triển, đạt nhiều thành tựu quan trọng và rõ nét trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH
5 năm của nhiệm kỳ vừa qua là giai đoạn phấn đấu bứt phá của Đà Nẵng với tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra trong từng thời điểm.

1. Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế
1.1. Tăng trưởng ở mức cao qua từng năm; cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm tương đối tỉ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng theo định hướng Nghị quyết Đại hội XVIII đề ra
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trong 5 năm (2001-2005) bình quân tăng 13% (Nghị quyết: 13-14%).
Đến năm 2005, tỷ trọng các ngành trong GDP là: công nghiệp chiếm 48,2%, dịch vụ 46,1%, nông nghiệp 5,7%.

Thu nhập bình quân đầu người tính theo năm 2000 đạt 6,91 triệu đồng (460 USD), ước năm 2005 đạt 15,23 triệu đồng (1.015 USD), qua 5 năm tăng 2,2 lần. (1)

Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 20,1%/năm; trong đó công nghiệp Trung ương tăng 32,6%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 18,4%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Một số sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường như xăm lốp ô tô, hàng may mặc, giày, thủy sản, vật liệu xây dựng. Giá trị dịch vụ tăng 11,4%/năm. Các hoạt động dịch vụ tài chính-ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, dịch vụ cảng biển, tư vấn, công nghệ thông tin... đều có bước phát triển khá, có nhiều đổi mới với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.

Ngành du lịch đang có nhiều triển vọng phát triển; lượng khách tăng 10,9%/năm; tổng doanh thu tăng 7,9%/năm. Tuyến du lịch kết nối Đà Nẵng với 3 di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn, Hội An và cố đô Huế bước đầu phát huy hiệu quả.

Ngành thủy sản - nông - lâm phát triển khá ổn định theo hướng tăng giá trị sản lượng, giảm tỷ trọng trong cơ cấu GDP. Giá trị sản xuất tăng bình quân 5,9%/năm.

Thu, chi ngân sách trên địa bàn tăng khá, hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu; đảm bảo tự cân đối ngân sách và đóng góp nghĩa vụ với Trung ương. Tổng thu ngân sách tăng hàng năm 26%, tổng chi tăng 43,7%/năm.

Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Kim ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm. Qua 5 năm đã thu hút được 50 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 291,5 triệu USD; nâng tổng số lên 79 dự án với tổng vốn đầu tư 506,4 triệu USD. Hoạt động đối ngoại có nhiều nhân tố mới cả về đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân. Ngoài những mối quan hệ truyền thống, đã mở rộng địa bàn, thêm nhiều đối tác, bắt đầu mở cơ quan đại diện của thành phố tại nước ngoài. Công tác tuyên truyền, giới thiệu các thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được quan tâm.

1.2. Tiến trình đô thị hóa được đẩy mạnh. Công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị được đặc biệt chú trọng
Diện mạo thành phố hiện đại ngày càng rõ nét. Đến nay, về cơ bản thành phố đã xác định và hình thành các khu công nghiệp tập trung, các khu dịch vụ thương mại - du lịch, các khu dân cư.

Thành phố chủ trương vừa chú trọng phát triển sản xuất kinh doanh vừa tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cấp và chỉnh trang đô thị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng phúc lợi công cộng và nâng cao điều kiện sống của nhân dân. Mạng lưới điện, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước, các tuyến đường giao thông đã tương đối hoàn chỉnh. Cùng với quá trình đô thị hóa, bộ mặt nông thôn cũng có những thay đổi quan trọng về mọi mặt.

Tổng vốn đầu tư phát triển tăng nhanh qua các năm, ước đạt 23.912 tỷ đồng trong 5 năm (2001-2005), tăng bình quân 28,2%/năm. Nhiều công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội bao gồm các công trình dân dụng, công nghiệp, cơ sở hạ tầng, những công trình quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp và chất lượng cao đã được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, trong đó có các công trình do Trung ương đầu tư, như Quốc lộ 1A được nâng cấp và mở rộng, hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, đường 14 B, cầu Tuyên Sơn, nâng cấp cảng Tiên Sa... và các công trình của thành phố, như các tuyến đường Ngô Quyền, đường Nguyễn Tất Thành, Phạm Văn Đồng, Sơn Trà - Điện Ngọc, Điện Biên Phủ, , Bạch Đằng v.v... Phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" ngày càng phát huy tác dụng trong xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ dân sinh. 5 năm qua, nhân dân thành phố đã đóng góp tiền mặt, đất đai và các công trình, vật kiến trúc với tổng giá trị hàng trăm tỷ đồng để góp phần cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang khu vực đô thị và hệ thống hạ tầng nông thôn.

1.3. Vai trò quản lý nhà nước về kinh tế được tăng cường qua quá trình vận dụng linh hoạt, sáng tạo và thực hiện đồng bộ cơ chế chính sách nhằm khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh, tạo động lực phát triển thành phố
Trên cơ sở thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách của Nhà nước, thành phố đã mạnh dạn ban hành và triển khai thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách phù hợp với đặc điểm, yêu cầu phát triển của Đà Nẵng, khơi dậy nguồn lực của các thành phần kinh tế, tạo đòn bẩy cho phát triển sản xuất. Cụ thể: Chủ trương tạo vốn từ khai thác quỹ đất để xây dựng cơ sở hạ tầng; ban hành nhiều quy định cụ thể trong quản lý xây dựng cơ bản; một số chủ trương nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, vận dụng các chính sách ưu đãi đầu tư; thành lập Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh v.v...

Thành phố đã tích cực triển khai Đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp do thành phố quản lý”. Kết quả thực hiện sắp xếp doanh nghiệp bước đầu đã mang lại hiệu quả tích cực.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), thành phố đã xây dựng và thực hiện các đề án về phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Đến nay, toàn thành phố có 4.859 doanh nghiệp đăng ký hoạt động với tổng số vốn là 8.443 tỷ đồng, trong đó: 1.375 doanh nghiệp tư nhân, 2.382 Công ty trách nhiệm hữu hạn, 377 Công ty cổ phần, 725 chi nhánh-văn phòng đại diện của các doanh nghiệp. Kinh tế dân doanh bước đầu có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội của thành phố, góp phần khai thác tiềm năng, giải phóng sức sản xuất xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, tăng thu ngân sách, tăng kim ngạch xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Thành phố đang cố gắng vươn lên trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Những thành tựu trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thành ủy đã tập trung lãnh đạo phát triển văn hóa, tạo nền tảng tinh thần của xã hội, tiếp tục phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Những quan điểm lớn của Đảng về văn hóa - xã hội được quán triệt trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt hoạt động thuộc lĩnh vực này.
Quan điểm xây dựng và phát huy nguồn lực con người được thể hiện trong nhiều chủ trương biện pháp cụ thể về giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao nhằm thực hiện các chỉ tiêu phát triển nhân lực, góp phần nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI). Toàn thành phố đã hoàn thành phổ cập giáo dục bậc tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi; đến nay đã có 47/56 phường xã đạt chuẩn phổ cập bậc trung học. Thành phố có một số chính sách mang tính đột phá trong việc thu hút chất xám, đào tạo nhân tài, nổi bật là chính sách ưu đãi dành cho giáo viên và học sinh Trường trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn. Sau nhiều năm vắng bóng, đến nay đã có học sinh giỏi của thành phố đoạt giải quốc tế. Khoa học - công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống, ngày càng được chú trọng trong quá trình hoạch định và tiến hành các đề án phát triển kinh tế - xã hội. Việc xử lý môi trường đô thị được đặt ra tích cực hơn. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khoẻ sinh sản, dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em, vì sự tiến bộ của phụ nữ... tiếp tục được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Nhiều dịch bệnh, trong đó có dịch cúm gia cầm được khống chế có hiệu quả. Phong trào thể dục - thể thao quần chúng với nhiều hình thức phong phú đa dạng đang phát triển rộng rãi; việc đầu tư cho các công trình phục vụ thể thao thành tích cao, trong đó có bóng đá và một số bộ môn được chú ý đẩy mạnh.

Quan điểm xã hội hóa các hoạt động văn hóa - xã hội cũng được chỉ đạo tích cực hơn, góp phần đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân thành phố. Vai trò của các lực lượng xã hội được phát huy trên nhiều lĩnh vực, nhất là giáo dục - đào tạo và y tế. Trong nhiệm kỳ đã có thêm một số bệnh viện tư và trường tư, trong đó có trường có quy mô lớn - chủ yếu là trường trung học chuyên nghiệp. Đặc biệt thông qua chương trình xóa đói giảm nghèo, xoá nhà tạm đã phát huy cao độ nguồn lực của cả cộng đồng.

Các hoạt động văn hóa thấu suốt quan điểm kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc và địa phương gắn với yêu cầu hiện đại. Môi trường văn hóa thành phố nhìn chung khá lành mạnh. Tiềm năng văn hóa cơ sở được tiếp tục phát huy. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo tinh thần Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) được quan tâm chỉ đạo, đạt hiệu quả khá tốt. Hoạt động văn học - nghệ thuật tiếp tục có những chuyển biến tốt và sôi động hơn, một số tác phẩm của các loại hình nghệ thuật đã được dư luận đánh giá cao. Báo chí, xuất bản ngày càng cố gắng vươn lên đáp ứng yêu cầu phát triển mới, xứng đáng với vai trò là tiếng nói của Đảng và chính quyền, là diễn đàn của nhân dân.

Những vấn đề bức xúc về xã hội được chỉ đạo giải quyết trên quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Các chỉ tiêu về lĩnh vực này cơ bản được hoàn thành, nhất là chỉ tiêu về xóa hộ nghèo theo chuẩn quốc gia. Đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng chính sách từng bước được cải thiện; kịp thời giải quyết những trường hợp cứu tế xã hội. Các hoạt động vì người nghèo, vì các nạn nhân chất độc da cam, phong trào giúp nhau làm kinh tế giỏi v.v... đã tạo không khí xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Những thành tựu về chỉnh trang đô thị và các chương trình xã hội khác đã góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về đời sống giữa cư dân các vùng. Đặc biệt, thành phố đã tập trung dồn sức thực hiện Chương trình “Thành phố 5 không”, một số mục tiêu của Chương trình đạt được kết quả vượt dự tính ban đầu.

3. Những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh và công tác nội chính
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình chung và yêu cầu phải triển khai rất nhiều nhiệm vụ lớn có liên quan đến quyền lợi thiết thân của người dân, thành phố vẫn giữ được ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra điểm nóng.

Các cấp ủy đảng, chính quyền coi trọng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực cho quốc phòng - an ninh. Thành ủy đã ra Nghị quyết về xây dựng khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc và Nghị quyết về lãnh đạo lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên. Các lực lượng quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân, an ninh trên biển được giữ vững. Chương trình phối hợp giữa các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn với các ngành, đoàn thể làm công tác dân vận đạt hiệu quả cao. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu phương quân đội, được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc, chu đáo.

Thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới” và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc, các cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác chống âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng và đồng bộ; xây dựng được thực lực chính trị ở cơ sở. Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, ma tuý mại dâm được thực hiện gắn với Chương trình “5 không” của thành phố đạt hiệu quả tích cực. Tội phạm hình sự, tội phạm ma tuý được kiềm chế. Trật tự an toàn giao thông được đảm bảo, tai nạn giao thông giảm.

Thành phố cũng đã quan tâm chỉ đạo cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp trong tình hình mới. Công tác giáo dục đề cao ý thức cảnh giác chống tội phạm, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được tiến hành có kế hoạch và tương đối thường xuyên. Đã có những chủ trương cụ thể, kịp thời nhằm ngăn ngừa, răn đe hành vi phạm tội. Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành đồng bộ hơn. Bước đầu đã đạt được một số kết quả trong đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội.

III. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN, PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

1- Công tác xây dựng Đảng và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiếp tục đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả
Quán triệt quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, 5 năm qua, toàn Đảng bộ thành phố đã đoàn kết, thống nhất, vừa tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vừa chú trọng công tác xây dựng Đảng. Các cấp ủy Đảng đã xây dựng Chương trình hành động, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (lần 2) và bộ phận chuyên trách nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Kết luận Hội nghị Trung ương 4 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và các vụ việc nổi cộm, bức xúc. Trong thực tế, Đảng bộ các cấp đã có nhiều cách làm mới, sáng tạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Công tác chính trị, tư tưởng được quán triệt là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng bộ. Các cấp ủy coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng, triển khai công tác tư tưởng qua nhiều kênh khác nhau, phù hợp với nhiều đối tượng. Cán bộ chủ chốt các cấp chủ động nắm tình hình, thường xuyên đối thoại với nhân dân, trực tiếp giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn. Đảng bộ chú trọng chăm lo công tác giáo dục tư tưởng chính trị, nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tổng kết thực tiễn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao chất lượng các đợt học tập quán triệt nghị quyết của Đảng; làm tốt công tác thông tin thời sự chính trị, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thành ủy triển khai nhiều biện pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục phẩm chất, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, ban hành nhiều chỉ thị về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiên quyết chống các hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch đối với nhân dân trong cán bộ, công chức các cấp, coi đây là giải pháp đột phá, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với đảng bộ và chính quyền thành phố. Cấp ủy các cấp đã tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, thiết thực kỷ niệm các ngày lễ lớn, tổ chức thi tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về Đảng, về nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tổ chức các hội thi bí thư chi bộ giỏi, báo cáo viên giỏi, các phong trào thi đua yêu nước, tạo được không khí phấn khởi, phát huy tính tích cực, chủ động của cán bộ, đảng viên và nhân dân, qua đó, tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và cách mạng; phê phán các biểu hiện tha hóa về tư tưởng chính trị; ngăn chặn việc tán phát các tài liệu xấu, bác bỏ các quan điểm chính trị phản động, sai trái, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ các cấp, lịch sử truyền thống các ngành được quan tâm chỉ đạo và có kết quả cụ thể. Nhìn chung, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng củng cố sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong xã hội về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và thành phố. Bộ máy và cán bộ làm công tác tư tưởng, văn hóa, văn nghệ, khoa giáo các cấp được củng cố một bước.

Công tác tổ chức có nhiều chuyển biến mới, tích cực. Thành ủy chú trọng củng cố các ban tham mưu, sắp xếp lại các đảng ủy trực thuộc, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của chính quyền; điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; đặc biệt tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở và dưới cơ sở(2) theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, coi đây là khâu quan trọng trong việc xây dựng hệ thống chính trị các cấp. Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả. Đã chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ; gần cuối nhiệm kỳ, công tác luân chuyển cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Hầu hết cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phường, xã đã được trẻ hóa; thành phố đã hình thành quỹ lương cho cán bộ chuyên trách công tác đảng, mặt trận, đoàn thể cơ sở. Đặc biệt đã triển khai có hiệu quả chính sách thu hút, tuyển dụng, bố trí cán bộ có trình độ cao và sinh viên khá giỏi vào làm việc trong các cơ quan đảng, chính quyền đi đôi với việc khẩn trương chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ cao cho thành phố trong giai đoạn mới thông qua những giải pháp mang tính đột phá.

Công tác quản lý đảng viên và xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng được chú trọng. Thành ủy đã chỉ đạo triển khai dự án xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu đảng viên; tiến hành đổi và phát thẻ đảng viên theo tinh thần Chỉ thị 29-CT/TW của Bộ Chính trị; đề ra quy chế khen thưởng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh và đảng viên tiêu biểu hàng năm. 100% đảng viên công tác ở các cơ quan được giới thiệu về sinh hoạt với cấp ủy nơi cư trú, giữ vững liên hệ với địa bàn dân cư. Mỗi năm, đảng bộ thành phố có gần 60% tổng số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thành ủy chú trọng củng cố các cơ sở đảng yếu kém trong các doanh nghiệp, cơ quam hành chính, sự nghiệp và phường, xã; lãnh đạo thực hiện đúng các quy định của Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Các tổ chức đảng thường xuyên đẩy mạnh tự phê bình, phê bình; đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bước đầu tạo được một số chuyển biến ở các cấp, phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn dân cư. Hàng năm có gần 70% tổng số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có trên 15% đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Thành ủy đã quy định cụ thể về nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ; nhiều nơi triển khai thực hiện nghiêm túc, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy, quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên, nhất là trong trường học và các khu dân cư. Nhiệm kỳ qua, toàn đảng bộ thành phố đã kết nạp được 7.114 đảng viên, trong đó có 2.869 nữ (40,32%), 3.834 có trình độ cao đẳng, đại học trở lên (53,66%)(3).

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm chỉ đạo. Thành ủy và các cấp ủy đảng đã chỉ đạo rà soát chính trị nội bộ theo tinh thần Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị; tổ chức xác minh, làm rõ và kết luận những trường hợp có quan hệ về lịch sử chính trị; giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện hành của cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ và công tác phát triển đảng viên.

Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường, nhất là kiểm tra việc chấp hành chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng; chấp hành chính sách về quản lý tài chính, tài sản của các cấp ủy đảng và những quy định về những điều đảng viên không được làm. Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp chỉ đạo triển khai tốt các cuộc kiểm tra theo các kế hoạch 01, 02, 03, 04 và 05-KH/TW của Ban Bí thư Trung ương; kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm và tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sai phạm, được dư luận đồng tình. Trong nhiệm kỳ qua, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã xử lý kỷ luật 530 đảng viên, trong đó khiển trách 276, cảnh cáo 196, cách chức 18, khai trừ 40; đảng viên thuộc cấp thành phố quản lý 9, quận huyện quản lý 92, cơ sở quản lý 151, chi bộ quản lý 278. Nhìn chung, công tác kiểm tra thực hiện theo chương trình, có trọng tâm, trọng điểm. Kết quả kiểm tra có tác dụng giữ nghiêm kỷ luật Đảng, giáo dục và ngăn ngừa vi phạm, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng, làm trong sạch, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng bộ các cấp.

Phương thức lãnh đạo của đảng bộ có nhiều đổi mới. Thành ủy không những chỉ đề ra chủ trương mà còn chú trọng chỉ đạo tổ chức thực hiện, quan tâm đến việc đề ra các giải pháp, lựa chọn các giải pháp đột phá, các khâu trọng tâm, trọng điểm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Trong tổ chức thực hiện, Thành ủy chú trọng phân công, phân cấp rõ ràng, đề cao trách nhiệm cá nhân, chỉ đạo phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể. Lãnh đạo thành phố luôn bám sát cơ sở, trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện; đối thoại với quần chúng, với doanh nghiệp để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, tổ chức thực hiện bằng được chủ trương đã đề ra. Việc ứng dụng tin học vào hoạt động của các cơ quan Đảng đạt được những kết quả bước đầu, góp phần đổi mới lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác.

2- Hoạt động của các cơ quan dân cử có tiến bộ, hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp được nâng cao
Hoạt động của Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố được tăng cường, chú trọng tiếp xúc và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Vai trò của Hội đồng Nhân dân các cấp ngày càng được phát huy, nội dung các kỳ họp và công tác giám sát, tiếp xúc cử tri có chất lượng hơn. Thành phố đã tổ chức tốt các cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp (nhiệm kỳ 2004-2009); sau bầu cử, chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn; hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh từng bước được nâng lên. Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện và đi dần vào nền nếp. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và lãnh đạo các cơ quan hành chính thường xuyên tổ chức tiếp dân định kỳ, tiếp dân các dự án, chú trọng giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Chương trình cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, nhất là việc cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa” đạt được những kết quả tích cực. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, thu hút nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, phân định chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ngành được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, nhũng nhiễu, hách dịch đối với nhân dân trong cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước theo tinh thần Chỉ thị 11-CT/TU và Nghị quyết 09-NQ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy đạt được những kết quả bước đầu. Việc thực hiện thí điểm chủ trương khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu; phân cấp một số công việc cho sở, ngành, quận, huyện đạt kết quả tốt, đang tiếp tục được nhân rộng. Thành ủy đã chỉ đạo xây dựng đề án điều chỉnh địa giới hành chính một số phường, xã và thành lập quận mới Cẩm Lệ, đáp ứng yêu cầu mở rộng không gian đô thị theo quy hoạch phát triển thành phố hiện đại, văn minh. Đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước đang được triển khai có kết quả.

3- Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân thành phố được phát huy, mặt trận và các đoàn thể nhân dân được củng cố về tổ chức và hoạt động
Thực tiễn 5 năm qua đã chứng tỏ khối đại đoàn kết toàn dân thành phố là động lực quan trọng để phát triển; mỗi thành quả đạt được đều có sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Thành ủy chú trọng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có kết quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Các cấp ủy đảng thường xuyên chăm lo công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt chủ trương “an dân” của Thành ủy; tạo điều kiện cho Mặt trận và các đoàn thể tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể với nhân dân được củng cố. Các phong trào thi đua yêu nước, bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tổ chức “Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc”; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở phát triển rộng khắp và ngày càng đi vào chiều sâu. Các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các tôn giáo đẩy mạnh phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo; thực hiện chương trình “5 không”, thực hiện kế hoạch hóa gia đình... Tinh thần tương thân, tương trợ trong cộng đồng được phát huy. Công tác phối hợp giữa các đoàn thể chính trị và các lực lượng vũ trang làm công tác dân vận trên địa bàn đạt kết quả tốt, thông qua đó góp phần xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở. Công tác vận động những bà con đồng bào Quảng Nam, Đà Nẵng đang sinh sống ở nước ngoài về làm ăn, hợp tác được chú trọng và đạt một số kết quả bước đầu.

Mặt trận, đoàn thể, các tổ chức xã hội hướng mạnh về cơ sở, ngày càng phát huy vai trò to lớn trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố sự đồng thuận xã hội.

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Sinh viên thành phố có nhiều phong trào hoạt động sôi nổi, thu hút thanh niên vào tổ chức, giáo dục tuổi trẻ về lý tưởng cách mạng.
Liên đoàn Lao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, có nhiều phong trào hành động cách mạng thiết thực.

Đội ngũ công nhân, viên chức, lao động được nâng cao về trình độ các mặt, có nhiều đóng góp vào sự phát triển của thành phố.

Đội ngũ trí thức, lực lượng công thương gia và đồng bào thành phố ở nước ngoài cũng có nhiều hình thức đóng góp thiết thực vào sự phát triển của thành phố.

IV. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO

1. Về kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững. Quy mô kinh tế thành phố còn nhỏ, chất lượng thấp, chưa tương xứng với vai trò thành phố động lực.

Công nghiệp chưa định hình rõ được ngành, sản phẩm chủ lực, còn ít sản phẩm khẳng định được thương hiệu, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế còn thấp. Việc đổi mới công nghệ còn chậm.

Thương mại chưa thực sự đảm nhận được vai trò cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng; dịch vụ vận tải biển đang là khâu yếu. Những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường đang là vấn đề lớn đặt ra đối với lĩnh vực xuất khẩu của thành phố. Ngành du lịch tuy được chú trọng đầu tư nhưng vẫn đang trong tình trạng yếu kém cả về cơ sở vật chất và phương thức hoạt động. Dịch vụ tài chính tiền tệ chậm phát triển, dịch vụ khoa học và công nghệ chưa được chú ý đúng mức.

Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp cả về số lượng và quy mô dự án. Nguồn thu ngân sách khá cao nhưng cơ cấu chưa thật hợp lý.

Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn trước đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các lợi thế về kinh tế biển chưa được quan tâm khai thác đầy đủ. Phương thức canh tác nông nghiệp tiên tiến theo hướng sản xuất hàng hóa chậm được đưa vào nông thôn trên diện rộng.

Việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Một bộ phận cán bộ quản lý ở một số doanh nghiệp thiếu nhạy bén, không đủ năng lực điều hành theo cơ chế mới, đội ngũ thợ lành nghề còn thiếu hụt; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do thị trường nhỏ hẹp, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Khu vực kinh tế dân doanh chưa được quan tâm đúng mức; công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân còn những bất cập. Chưa có chính sách thật sự thông thoáng, hấp dẫn nhằm tạo điều kiện để cho kinh tế tư nhân phát triển.

Trong chỉ đạo quy hoạch, chỉnh trang đô thị, vẫn còn tình trạng một số công trình, dự án dàn trải trong khi vốn đầu tư hạn chế, dẫn đến thi công kéo dài, chậm đưa vào sử dụng, nhất là các khu tái định cư, làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống và tâm trạng một bộ phận nhân dân. Nhân tố văn hóa, môi trường chưa được thể hiện đậm nét trong quy hoạch, còn thiếu những khoảng không gian "xanh" và các tiện ích đảm bảo sinh hoạt công cộng.

2. Về văn hóa - xã hội: Trong bối cảnh thành phố đang chuyển động mạnh theo hướng đô thị hóa, lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc chậm được giải quyết, một mặt do không đủ điều kiện đầu tư, mặt khác do chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức.

Đời sống vật chất tinh thần và việc làm của một bộ phận nhân dân còn khó khăn, nhất là khu vực các xã miền núi và các hộ dân thuộc diện di dời giải tỏa phục vụ chỉnh trang đô thị.

Chất lượng giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh sau bậc trung học còn lúng túng. Chưa ngăn chặn triệt để tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan.

Hoạt động nghiên cứu khoa học chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng nhằm tạo ra những đột phá để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; cơ chế quản lý chương trình, đề tài, dự án khoa học - công nghệ còn bất cập và chậm đổi mới.

Chất lượng khám - chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế còn hạn chế. Tình hình biến động dân số về mức sinh, nhất là sinh con thứ ba trở lên gây ảnh hưởng đến việc duy trì mức sinh thay thế và nâng cao chất lượng dân số thành phố.

Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực văn hóa, thông tin, báo chí, xuất bản, đặc biệt đối với các dịch vụ văn hóa như quán bar, vũ trường, karaoke, internet... còn nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Các thiết chế văn hóa từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã còn thiếu, chưa đồng bộ, tác dụng còn hạn chế.

Việc đầu tư cho văn hóa, văn học - nghệ thuật chưa tương xứng với đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tiềm năng của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ chưa được phát huy đầy đủ. Mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân còn thấp. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phát triển không đồng đều, chưa bền vững. Nếp sống văn hóa, văn minh đô thị chưa trở thành ý thức tự giác trong nhân dân. Môi trường sống ở một số khu vực dân cư bị ô nhiễm nghiêm trọng; mật độ cây xanh khu vực nội thành còn thấp.

3. Về quốc phòng - an ninh: Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, vẫn còn những mặt chưa đáp ứng đòi hỏi của việc củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, tăng cường khả năng phòng thủ; công tác bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa có lúc có nơi chưa theo kịp diễn biến tình hình.

Tình hình tội phạm hình sự, ma túy vẫn còn diễn biến phức tạp, quản lý nhân hộ khẩu nhất là dân nhập cư còn nhiều sơ hở, bất cập. Tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng chưa cơ bản.

4- Về cải cách hành chính: Kết quả đạt được chưa vững chắc, có mặt còn nửa vời, trách nhiệm cá nhân không rõ. Tình trạng trì trệ, thiếu trách nhiệm trong bộ máy hành chính vẫn còn nặng; những biểu hiện tránh né, đùn đẩy, ngại va chạm, sợ trách nhiệm, tiêu cực, sách nhiễu, gây phiền hà của cán bộ, công chức chưa được ngăn chặn triệt để. Công tác quản lý của chính quyền các cấp trên một số lĩnh vực, như quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, giá cả và quản lý đô thị còn nhiều mặt bất cập.

5. Về hoạt động của mặt trận và các đoàn thể: Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể chuyển biến chậm, một số nơi vẫn còn nặng hình thức, hành chính, thiếu sức thu hút đối với quần chúng. Số lượng đoàn viên, hội viên các đoàn thể đông, nhưng chưa thật mạnh. Một số cấp ủy chưa quan tâm đúng mức đến việc lãnh đạo công tác vận động quần chúng. Thực lực chính trị có nơi còn mỏng, chưa đủ tin cậy.

6. Về công tác xây dựng Đảng: Một số tổ chức đảng chưa chú trọng đúng mức công tác xây dựng Đảng; chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ then chốt. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa tạo được chuyển biến cơ bản, vững chắc.

Công tác chính trị tư tưởng chưa thật chủ động, nhạy bén nắm bắt tình hình; còn thiếu những biện pháp cụ thể và có hiệu quả trong việc giáo dục lý tưởng cách mạng, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong điều kiện hiện nay. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng; chưa tự giác rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; tự phê bình và phê bình yếu. Các biểu hiện tư tưởng chạy theo thành tích, nể nang, xuê xoa, ngại va chạm trong sinh hoạt đảng chưa được đấu tranh phê phán mạnh mẽ, kiên quyết, thường xuyên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu chưa đuợc ngăn chặn và đẩy lùi.

Công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều mặt bất cập so với yêu cầu. Đội ngũ cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với công tác quy hoạch, sử dụng cán bộ; chậm triển khai thực hiện công tác luân chuyển cán bộ; thiếu giải pháp đột phá trong việc phát hiện, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ chưa được nâng cao, chưa bảo đảm 3 tính chất theo quy định (tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu); còn nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa phát triển được đảng viên.

Công tác kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp chưa được tiến hành thường xuyên, hiệu quả một số cuộc kiểm tra chưa cao. Một số tổ chức đảng có biểu hiện bao che, giấu giếm vi phạm vì sợ ảnh hưởng thành tích của đơn vị, sợ mất cán bộ.

Việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết còn yếu, nhiều cơ sở đề ra chủ trương còn chung chung, thiếu biện pháp cụ thể; thiếu kiểm tra, đôn đốc thường xuyên.

V. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BÀI HỌC
1. Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, sự quan tâm về mặt chủ trương, chính sách và đầu tư của Trung ương đối với Đà Nẵng được thể hiện cụ thể hơn, đặc biệt là Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị đã tạo cơ hội cho thành phố phát triển; trên cơ sở đó, thành phố cũng nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả hơn của các Bộ ngành, các cơ quan Trung ương và sự phối hợp của các địa phương trong cả nước.

Hai là, sự nhạy bén, ý chí quyết tâm cao, sự đoàn kết hợp lực vì mục tiêu chung của lãnh đạo thành phố, của các cấp các ngành, quyết tâm trong thời gian ngắn nhất đưa Đà Nẵng phát triển nhanh trên các mặt, vươn lên trở thành đô thị hiện đại văn minh. Trong chỉ đạo điều hành, đã có cách làm mới, năng động sáng tạo, đề ra được những chủ trương sát đúng, hợp lòng dân, vừa đảm bảo phát triển thành phố, vừa giữ được ổn định chính trị, tạo đồng thuận xã hội, khơi dậy và phát huy ý chí, nguồn lực của địa phương; sự phối hợp chặt chẽ gìữa các cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, giữa thành phố với các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành bạn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Ba là, sự phấn đấu vươn lên, tinh thần vượt khó của toàn đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố quyết tâm xây dựng quê hương; là sự đồng tình và hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân đối với những chủ trương lớn nhằm phát triển toàn diện thành phố.

2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan: Tình hình kinh tế, chính trị thế giới diễn biến phức tạp, khó lường ảnh hưởng đến kinh tế trong nước, tác động tới thành phố; việc quy hoạch và tập trung đầu tư của Trung ương để thành phố Đà Nẵng giữ vai trò động lực phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên còn hạn chế; tuy nhiên, đảng bộ thành phố xác định nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:

Việc quán triệt và đôn đốc chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết, chủ trương của Trung ương, của thành phố ở một số cấp, một số ngành chưa sâu, chưa kiên quyết, dẫn đến hiệu quả chưa cao.

Cơ cấu đội ngũ cán bộ công chức các cấp, các lĩnh vực chưa đồng bộ trong khi việc quy hoạch đào tạo chưa thật kịp thời, việc bố trí cán bộ ở một số ngành và lĩnh vực còn bị động. Trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tiễn và tính năng động, sáng tạo của đội ngũ công chức chưa thực sự đáp ứng yêu cầu công việc.

Hệ thống tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa khắc phục được tình trạng quan liêu, cơ chế phối hợp chưa chặt chẽ và đồng bộ, có ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

3. Bài học kinh nghiệm
Trên cơ sở quán triệt và vận dụng những bài học mang tính phổ biến của cả nước ta trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, bước đầu rút ra 3 bài học từ thực tế thành phố Đà Nẵng như sau:

Một là: Bài học về thấm nhuần và phát huy dân chủ thực sự đi đôi với giữ vững kỷ cương.
Thực hiện dân chủ trong Đảng, tập trung xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, phát huy vai trò của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành, đề cao vai trò gương mẫu của từng cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, xây dựng khối đoàn kết trong đảng bộ, từ thành phố đến cấp cơ sở, tạo được không khí dân chủ trong sinh hoạt đảng, tạo sự nhất trí cao giữa ý Đảng và lòng dân.

Thực sự đổi mới quan điểm và phong cách lãnh đạo theo hướng phát huy tinh thần dân chủ đối với người dân. Phát động và xây dựng trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo và công chức các cấp của thành phố phong cách làm việc “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, hết lòng vì quyền lợi của nhân dân. Chủ động tổ chức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo chủ chốt của thành phố với các tầng lớp dân cư, thành tâm nghe dân phát biểu nguyện vọng, từ đó tập trung giải quyết một cách tích cực, kịp thời những vấn đề bức xúc, những đòi hỏi lợi ích chính đáng của người dân, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc ngay tại cơ sở.

Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, nhất là kỷ cương hành chính; trong đó, cán bộ công chức, đảng viên phải gương mẫu, đồng thời vận động, giáo dục nhân dân chấp hành kỷ cương phép nước.

Hai là: Bài học về huy động các nguồn lực.
Một mặt thành phố thực hiện đầy đủ các cơ chế chính sách của Nhà nước, mặt khác mạnh dạn triển khai một số cơ chế chính sách phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của địa phương nhằm khai thác tiềm năng và huy động các nguồn lực của các thành phần kinh tế; xây dựng những chương trình, đề án thực sự có tác dụng phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống nhân dân để tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương.

Đặc biệt, thành phố đã có cách làm mới, sáng tạo nhằm thực sự khơi dậy và phát huy được ý chí và nguồn lực trong các tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần xã hội, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất cả vì mục tiêu phát triển thành phố. Bên cạnh nguồn lực tinh thần, việc huy động nguồn lực vật chất trong dân - bao gồm tiền của, công sức, đất đai và vật kiến trúc - đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần phát triển thành phố và phục vụ đời sống nhân dân.

Ba là: Bài học về tổ chức thực hiện.
Phát huy tinh thần tiến công, quyết tâm cao, khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, lựa chọn đúng khâu đột phá và tập trung nguồn lực để thực hiện thắng lợi những khâu đột phá đó.

Trong tổ chức thực hiện, phát huy vai trò tập thể lãnh đạo, đề cao trách nhiệm cá nhân trong điều hành, quyết tâm trong chỉ đạo, chặt chẽ trong quản lý, đề ra chủ trương đi đôi với kiểm tra giám sát, kiên trì thực hiện đến cùng những mục tiêu đã được xác định. Phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các ngành các cấp, các đoàn thể và mặt trận, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra.


Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH NHIỆM KỲ 2005 - 2010
I. ĐÀ NẴNG TRƯỚC TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ MỚI
1. Đà Nẵng trong bối cảnh chung của đất nước 5 năm 2005 - 2010 và Tầm nhìn 2020
1.1. Những thành tựu của 20 năm đổi mới, nhất là của 5 năm nhiệm kỳ Đại hội IX đã mở ra những triển vọng tốt đẹp để nước ta đạt mục tiêu cơ bản hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, chúng ta vẫn có khả năng duy trì được môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển. Cùng với cả nước, Đà Nẵng đang trên tiến trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu với ưu thế ngày càng mạnh lên của nền kinh tế tri thức. Qua 20 năm đổi mới, mô hình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần rõ nét, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để thành phố tiếp tục đi tiếp những chặng đường phát triển mới. Tuy nhiên, những nguy cơ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ vẫn đang tiềm ẩn, có mặt trầm trọng. Những thách thức của cơ chế thị trường trong giai đoạn mới; tình trạng suy thoái đạo đức xã hội, đặc biệt là đạo đức của một bộ phận đảng viên có chức, có quyền làm giảm lòng tin của nhân dân. Những khó khăn về thiên tai, dịch bệnh, những yếu kém bất cập trong quản lý cũng đang là những thách thức khi bước vào nhiệm kỳ mới.

1.2. Với yêu cầu phát triển của 10 năm đầu thế kỷ XXI và Tầm nhìn 2020, Đà Nẵng sẽ phát triển thành một trong những đô thị lớn của cả nước với quy mô dân số khoảng 1,5 triệu người; không gian đô thị ngày càng mở rộng. Đà Nẵng sẽ phát huy vai trò là đô thị trung tâm của miền Trung, đầu mối giao thông quan trọng và cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và hành lang Đông-Tây; cùng với Khu kinh tế mở Chu Lai, Khu kinh tế Dung Quất đóng vai trò động lực phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh của khu vực và cả nước.

Trong cơ cấu kinh tế của Đà Nẵng vào năm 2020, ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng trên 60% GDP.

GDP bình quân đầu người đến năm 2020 phấn đấu đạt mức 5000 USD/người.

Đà Nẵng phấn đấu để trở thành thành phố công nghiệp vào năm 2015.

2. Phương hướng chung
Trên cơ sở Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị và 12 Chương trình lớn thực hiện Nghị quyết 33, Đảng bộ thành phố xác định phương hướng phát triển Đà Nẵng đến năm 2010:

Xây dựng Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước, trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của khu vực miền Trung và cả nước.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân thành phố, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, tăng cường hiệu quả hoạt động của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể.

Phấn đấu để nhiệm kỳ 2005 - 2010 là nhiệm kỳ phát triển nhanh và bền vững.

3. Quan điểm phát triển thành phố và phương châm hành động của Đảng bộ
3.1. Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội.

3.2. Phát triển kinh tế đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị xã hội.

3.3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

3.4. Coi chất lượng, hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu trong phát triển thành phố.

3.5. Xây dựng phẩm chất tinh thần của Đảng bộ trong giai đoạn mới: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân trên cơ sở đường lối chung của Đảng.

4. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
- Nhịp độ tăng GDP trung bình 14 - 15% giai đoạn 2006 – 2010.

- GDP bình quân đầu người đến 2010 đạt 2.000 USD.

- Tốc độ tăng GTSX công nghiệp 22 - 23%.

- Tốc độ tăng GTSX các ngành dịch vụ: 14 - 15%.

- Tốc độ tăng GTSX nông nghiệp: 5 - 6%.

- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 23 - 24%/năm.

- Thu ngân sách chiếm 22 - 23% GDP.

- Giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm: 0,3%o.

- Hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 3,2 - 3,5 vạn lao động.

- Năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn thành phố còn 0,5%.

- Gọi công dân nhập ngũ đạt 100% và bảo đảm về chất lượng.

II. NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP LỚN
1. Thúc đẩy chuyển dịch và hoàn thiện cơ cấu kinh tế “Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp”, tiến tới sau năm 2010 chuyển sang cơ cấu “Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”
Hướng đột phá về kinh tế là: Phát triển công nghiệp có chọn lọc, tập trung vào những ngành hàng và sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao, coi trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế quan trọng của thành phố.

Đầu tư phát triển du lịch với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố, tạo nền tảng để phát triển mạnh các ngành dịch vụ sau năm 2010. Nghiên cứu từng bước xây dựng Đà Nẵng thành đô thị du lịch ven biển chất lượng cao.

Chú trọng phát triển kinh tế biển gắn với phát triển đa dạng các dịch vụ cảng biển nhằm khai thác lợi thế tuyến hành lang Đông - Tây. Xây dựng cảng Đà Nẵng thành cảng trung chuyển hàng hóa quốc tế. Cải tạo, mở rộng cụm cảng Đà Nẵng, phấn đấu lượng hàng hóa thông qua cụm cảng đạt mức khoảng 7 triệu tấn vào năm 2010. Xây dựng mới cảng biển nước sâu Liên Chiểu.

Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu; xây dựng Đà Nẵng trở thành đầu mối trung chuyển, quá cảnh và giao thương hàng hóa - dịch vụ của miền Trung. Phát triển các hoạt động dịch vụ bưu chính viễn thông, tài chính, chuyển giao công nghệ, tư vấn... đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đổi mới, lành mạnh hóa hệ thống tài chính trên cơ sở thực hiện các biện pháp nuôi dưỡng, ổn định, phát triển nguồn thu, cân đối chi nhằm tăng tiềm lực và khả năng tài chính của thành phố. Huy động ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22-23% GDP thành phố.

Phát triển kinh tế nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị. Tăng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngành nghề trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh phát triển thủy hải sản.

2. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại đi đôi với nâng cao năng lực quản lý đô thị
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 phù hợp với nội dung Nghị quyết số 33, trong đó lưu ý khai thác phát huy tiềm năng khu vực bán đảo Sơn Trà, Nam Hải Vân, sân bay Nước Mặn phục vụ phát triển kinh tế gắn với quốc phòng an ninh. Chú ý quan tâm yếu tố đảm bảo môi trường trong quy hoạch.

Phối hợp với các cơ quan Trung ương đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình lớn như: Mở rộng quốc lộ 1A, đường tránh phía Tây thành phố, xây dựng ga hàng không quốc tế Đà Nẵng, mở rộng Cảng Tiên Sa giai đoạn 2, hiện đại hóa trung tâm bưu chính viễn thông, di dời ga đường sắt, xây dựng đường cao tốc Đà Nẵng - Dung Quất, đường Đà Nẵng - Hội An v.v...đồng thời tập trung hoàn thiện mạng lưới giao thông nội thành, hệ thống giao thông nông thôn, đường ven biển Sơn Trà - Điện Ngọc, hoàn thành cầu Thuận Phước; phát triển một số khu đô thị mới. Nghiên cứu cải tạo và xây dựng mới một số cầu qua Sông Hàn.

Tổ chức đúc kết kinh nghiệm quản lý đô thị và việc thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" cũng như chủ trương tạo vốn từ khai thác quỹ đất để chỉ đạo tốt hơn trong thời gian tới.

3. Nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế
Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, ra sức khai thác, phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.

Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, đổi mới đi đôi với nâng cao hiệu quả doanh nghiệp thành phố quản lý. Quan tâm chỉ đạo việc quản lý các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Xác định vai trò kinh tế dân doanh là một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế thành phố phát triển. Tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện các đề án về phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể. Tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả của kinh tế hợp tác và hợp tác xã với hình thức hoạt động đa dạng. Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại ở các khu vực ngoại thành.

4. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại
Chuẩn bị các điều kiện cần thiết đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nâng cao năng lực điều hành và quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư. Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh đi đôi với tiếp tục nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách ưu đãi nhằm tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chủ động trong công tác vận động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và viện trợ phi chính phủ (NGO). Tăng cường quản lý, sử dụng các nguồn vốn một cách hiệu quả và tiết kiệm.

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động thực hiện phương án tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và giữ vững các mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập.

Xúc tiến các hoạt động đối ngoại, cả đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về thành phố. Củng cố và đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác truyền thống; tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các địa phương trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên, trong nước và quốc tế nhằm mở rộng quan hệ kinh tế, hợp tác đầu tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu.

5. Tập trung chỉ đạo phát triển văn hóa - xã hội tương xứng với sự phát triển kinh tế
Tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân dân về vị trí và tầm vóc của văn hóa theo tư duy mới của Đảng, coi văn hóa là mục tiêu và động lực của phát triển, là nền tảng tinh thần xã hội. Tiến hành cuộc vận động lớn và sâu rộng nhằm xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị trong cộng đồng dân cư thành phố.

Đầu tư toàn diện để lĩnh vực văn hóa tinh thần có bước phát triển năng động, rõ nét, tương xứng với tăng trưởng kinh tế và phát triển hạ tầng kỹ thuật. Phấn đấu trong 5 năm tới có được những công trình văn hóa vật thể và phi vật thể và các tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng. Hoàn thành một số thiết chế văn hóa trọng điểm của thành phố, quận, huyện và các xã, phường. Coi trọng việc bảo tồn, tôn tạo, phát huy các di tích lịch sử - văn hóa từ ý tưởng quy hoạch đến thực tế đầu tư. Phát huy hiệu quả đi đôi với tiếp tục xây dựng mới các thiết chế văn hóa chủ yếu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phát huy kết quả của phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, làm cho phong trào này ngày càng có chất lượng, hiệu quả và bền vững, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt về môi trường văn hóa trong cộng đồng dân cư, chú trọng các khu dân cư mới hình thành và các chung cư. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, kịp thời ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật và trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Quan tâm chỉ đạo phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật thành phố, phấn đấu có được những tác phẩm có giá trị về chiến tranh cách mạng và về công cuộc đổi mới đất nước. Củng cố hệ thống báo chí, xuất bản theo hướng tiếp cận được với xu thế truyền thông hiện đại, có khả năng chuyển tải tiếng nói của Đảng, diễn đàn của nhân dân.

Tạo mọi điều kiện để giáo dục-đào tạo, khoa học - công nghệ thực sự giữ vai trò quốc sách hàng đầu trong phát triển thành phố. Coi trọng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các trường học, nhất là chất lượng tư tưởng đạo đức và năng lực sáng tạo. Duy trì kết quả phổ cập giáo dục, nhất là kết quả phổ cập bậc trung học, đi đôi với đẩy mạnh định hướng nghề nghiệp và phân luồng học sinh sau bậc trung học. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; cải thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ dạy - học theo chuẩn quốc gia. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống giáo dục thường xuyên và các trung tâm học tập cộng đồng, phấn đấu xây dựng xã hội học tập.

Đảm bảo để khoa học và công nghệ tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình phát triển thành phố với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp. Phát huy tốt vai trò tư vấn, phản biện, giám định của các tổ chức khoa học - công nghệ trên địa bàn thành phố, nâng cao hàm lượng khoa học trong lãnh đạo quản lý, nhất là trong việc hoạch định chủ trương chính sách và thẩm định đầu tư công nghệ mới, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế tri thức. Có kế hoạch trong 5, 10 năm tới xây dựng cho được đội ngũ chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Phát huy vai trò của Đại học Đà Nẵng và Học viện Chính trị khu vực 3 và các cơ sở giáo dục khác trên địa bàn. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án xây dựng Làng đại học Đà Nẵng. Tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, đồng thời tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học cơ bản có định hướng ứng dụng trong giai đoạn sau. Xúc tiến nhanh việc xây dựng Khu công nghệ cao; nâng cấp Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ thành phố ngang tầm Trung tâm khu vực. Đẩy mạnh việc liên kết hình thành thị trường khoa học-công nghệ trong khu vực.

Thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Tiếp tục đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ phòng bệnh và khám - chữa bệnh đối với hệ thống bệnh viện từ tuyến quận, huyện trở lên và trạm y tế các xã phường. Nghiên cứu xây dựng hệ thống y tế chuyên sâu kỹ thuật cao; hoàn thành xây dựng bệnh viện 600 giường. Thường xuyên giáo dục y đức và nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ y sĩ, bác sĩ và nhân viên y tế nhằm nâng cao chất lượng điều trị và thái độ phục vụ người bệnh. Chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về y tế, nhất là hành nghề y dược tư nhân; thường xuyên kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh. Đẩy mạnh công tác truyền thông dân số, gia đình và trẻ em. Kiên quyết chỉ đạo giảm sinh một cách vững chắc, xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ đảng viên vi phạm chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Từng bước nâng cao quy mô và chất lượng dân số, sau năm 2010 dân số thành phố ước đạt trên 1 triệu người; đi liền với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đặc biệt đối với trẻ em dưới 6 tuổi và những người cao tuổi; từng bước đạt mục tiêu xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”. Thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực hoạt động xã hội, tiếp tục triển khai kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Huy động các nguồn lực đầu tư cho thể thao thành tích cao, duy trì và phát triển các bộ môn thể thao thế mạnh của thành phố.

Phấn đấu đạt mục tiêu giảm nghèo theo chuẩn của thành phố nhằm nâng cao hơn nữa mức sống của nhân dân. Tập trung giải quyết có hiệu quả hơn các vấn đề bức xúc về xã hội và môi trường sinh thái, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của thành phố. Củng cố và giữ vững chất lượng Chương trình “Thành phố 5 không”, đồng thời tích cực triển khai Chương trình “Thành phố 3 có”: có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa văn minh đô thị. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội.

6. Tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành nội chính, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Nghị quyết 08 của BCH TW (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết 02 của Thành ủy về xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc. Cấp ủy, chính quyền các cấp phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tập trung phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân vững mạnh. Coi trọng giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị, không để xảy ra các tình huống bất ngờ.

Chăm lo công tác đảng, công tác chính trị, bảo đảm công tác hậu cần kỹ thuật, tăng cường chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đảm bảo chất lượng. Chỉ đạo chặt chẽ công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ hàng năm. Công tác động viên quân đội thực hiện đúng pháp lệnh, đăng ký quản lý chặt chẽ ở từng cấp; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Đảm bảo an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, văn hóa-tư tưởng. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 09/CP của Chính phủ và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, kiềm chế, không để tội phạm gia tăng. Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh trật tự, giải quyết tốt trật tự an toàn giao thông, trật tự đô thị.

Xây dựng lực lượng biên phòng thành phố vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh vùng biển; tham gia phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng thực lực chính trị trên địa bàn biên phòng, tạo nền tảng để xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh.

Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08 Bộ Chính trị (khóa IX). Củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật trong sạch vững mạnh về tư tưởng, tổ chức, thực sự là công cụ sắc bén của Đảng, chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân. Phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật đi đôi với tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội.

Phần thứ ba
PHÁT HUY DÂN CHỦ, MỞ RỘNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VỮNG MẠNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ TRONG THỜI KỲ MỚI
Cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, trong nhiệm kỳ tới, Đảng bộ xác định phương hướng xây dựng hệ thống chính trị nói chung và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng là: Tiếp tục phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đủ sức đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, chăm lo đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp; mở rộng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân thành phố.

I. ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ CÁC CẤP
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), Kết luận 04 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX), đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ, gắn công tác xây dựng Đảng với cải cách thủ tục hành chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở.

1. Về công tác tư tưởng
Tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ; nói và làm theo nghị quyết của Đảng, nói đi đôi với làm; củng cố niềm tin về chủ nghiã xã hội, về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tổ chức tốt việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Coi trọng xây dựng văn hóa trong Đảng, trước tiên là kiên quyết đấu tranh chống sự tha hóa về tư tưởng chính trị, về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường giáo dục lý tưởng cộng sản, mục tiêu xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Hoàn thành bản thảo lịch sử Đảng bộ giai đoạn 1975 – 2000. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tự giác, tinh thần đoàn kết, gương mẫu của cán bộ, đảng viên; giữ gìn tư cách, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, có lối sống lành mạnh, có tinh thần trách nhiệm với công việc, với nhân dân; chống mọi biểu hiện cơ hội, cục bộ, thực dụng, cá nhân chủ nghĩa; chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng và pháp luật Nhà nước. Tổ chức đảng phải ngăn chặn việc tán phát các tài liệu, quan điểm sai trái, phản động; đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.

Đổi mới nội dung và phương thức công tác tư tưởng, tuyên truyền; hướng mạnh về cơ sở, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Có nhiều hình thức và nội dung, phương pháp công tác tư tưởng phù hợp với từng đối tượng. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với các cơ quan báo chí, văn hóa, văn nghệ. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tư tưởng, khoa giáo ngang tầm với nhiệm vụ.

2. Về công tác tổ chức và cán bộ
Tiếp tục kiện toàn về tổ chức, bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp từ thành phố đến cơ sở. Kiện toàn các cơ quan đảng, hoàn thiện việc sắp xếp các đảng ủy trực thuộc Thành ủy đi đôi với chỉ đạo kiện toàn các cơ quan chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp. Định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, lề lối làm việc của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, bảo đảm thật sự tinh gọn, quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, phối hợp hoạt động có hiệu quả. Tập trung nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở; tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của bộ máy các cơ quan chính quyền, mặt trận, đoàn thể và tổ chức đảng dưới phường, xã. Xây dựng hệ thống chính trị luôn hướng về dân, gắn bó với dân, có trách nhiệm với dân, phục vụ tốt nhất những nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Tập trung lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh; không quan liêu, tham nhũng, hách dịch; có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước dân; có tư duy sáng tạo và kiến thức chuyên môn vững vàng; phong cách làm việc xông xáo, quyết liệt, khoa học, nói đi đôi với làm. Đổi mới tư duy về công tác cán bộ; phát huy dân chủ, thực hiện công khai trong công tác cán bộ; nghiên cứu triển khai những giải pháp đột phá về công tác cán bộ để có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong nhiệm kỳ đến, mỗi cấp ủy viên phải tiến cử ít nhất một cán bộ để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; thành phố sẽ đầu tư ngân sách để chọn tuyển đi đào tạo ở nước ngoài 100 thạc sĩ, tiến sĩ (bình quân mỗi năm 20 người) phù hợp với yêu cầu về cơ cấu đội ngũ cán bộ của thành phố. Rà soát, đánh giá và bố trí lại đội ngũ cán bộ, trước mắt là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; bảo đảm đúng tiêu chuẩn chức danh đối với từng loại cán bộ, trước hết là tiêu chuẩn chức danh cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt các ngành, các cấp. Thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ hàng năm theo hướng công khai, minh bạch, khách quan, lấy hiệu quả công việc và phẩm chất, lối sống làm thước đo chính. Bố trí đúng cán bộ theo năng lực, sở trường; tôn vinh thích đáng những cán bộ có tài, có công; mạnh dạn đề bạt vượt cấp đối với những cán bộ trẻ có triển vọng, khuyến khích những cán bộ có sáng kiến; thay thế những cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ, không đáp ứng được yêu cầu công việc; xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tham nhũng và liên quan đến tham nhũng, nhũng nhiễu, làm mất lòng tin của dân. Thực hiện tốt cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm có thời hạn cán bộ; xây dựng đề án và triển khai thí điểm việc thi tuyển vào các chức danh bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng gắn với luân chuyển cán bộ theo tinh thần NQ 11-NQ/TW của Bộ Chính trị; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tự đào tạo (trong nước và nước ngoài). Thực hiện nghiêm các quy định về lấy phiếu tín nhiệm, quản lý, giám sát cán bộ. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải chú trọng tính đồng bộ, quan tâm đến cơ cấu về giới và độ tuổi, tiếp tục trẻ hóa đội ngũ cán bộ, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển trong công tác cán bộ.

Thực hiện tốt chính sách thu hút nhân tài và cán bộ có trình độ cao trên các lĩnh vực, cán bộ lãnh đạo, quản lý sản xuất - kinh doanh, khoa học và công nghệ... Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương tuyển dụng, bố trí sinh viên khá, giỏi vào làm việc trong các cơ quan nhà nuớc; mở rộng diện tuyển dụng sinh viên khá, giỏi vào làm việc trong các cơ quan mặt trận, đoàn thể và cơ quan Đảng. Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện, nhất là chất lượng tư tưởng chính trị, đạo đức của học sinh, sinh viên các cơ sở giáo dục - đào tạo trên địa bàn thành phố, trong đó chú trọng trường trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn, nhằm chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho thành phố trong nhiệm kỳ sau.

Tập trung sức xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp. Đặc biệt, chú trọng củng cố tổ chức cơ sở đảng ở phường, xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các địa bàn trọng yếu; cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi ủy, chi bộ; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, thường xuyên tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng. Chi ủy và bí thư chi bộ phải chịu trách nhiệm về chất lượng sinh hoạt chi bộ, chi ủy theo đúng tinh thần hướng dẫn của Ban Thường vụ Thành ủy. Củng cố đoàn kết, nhất trí trong ban chấp hành, ban thường vụ các cấp ủy trên cơ sở thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt đảng. Phát huy vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên phải giữ mối liên hệ thường xuyên với nhân dân nơi công tác và nơi cư trú. Phấn đấu hàng năm có từ 65% đến 70% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.

Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, quản lý chặt chẽ đảng viên về tư tưởng và sinh hoạt, phân công nhiệm vụ cho đảng viên và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được giao; phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy nơi công tác và cấp ủy nơi cư trú trong việc quản lý đảng viên. Tăng cường công tác phát triển đảng viên, chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ của đảng viên. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm khắc những đảng viên thoái hóa, biến chất, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước. Thực hiện tốt việc phân tích chất lượng đảng viên hàng năm, phấn đấu mỗi năm có từ 65% đến 70% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tất cả các tổ chức cơ sở đảng có quần chúng đều phải làm nhiệm vụ phát triển đảng viên; phấn đấu mỗi năm phát triển trên 1.600 đảng viên mới có chất lượng.

Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Lãnh đạo thực hiện tốt Quy định 75-QĐ/TW và công tác rà soát chính trị nội bộ theo tinh thần Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị; tổ chức xác minh, kết luận những trường hợp có quan hệ về lịch sử chính trị và chính trị hiện hành; giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề chính trị của cán bộ, đảng viên, phục vụ kịp thời các yêu cầu của công tác cán bộ và công tác phát triển đảng viên.

3. Về công tác kiểm tra
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp, trọng tâm là kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ; ngăn ngừa có hiệu quả vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại và xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm kỷ luật Đảng. Kiện toàn ủy ban kiểm tra và chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, thể hiện rõ chính kiến, làm rõ đúng sai, kết luận chính xác, giữ gìn kỷ cương trong Đảng.

4. Về phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cải tiến lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả công tác của các cấp ủy đảng. Tập trung nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, đề ra chủ trương, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động có trọng tâm, trọng điểm, có tính khả thi nhằm đạt hiệu quả cao. Coi trọng khâu kiểm tra, giám sát trong nội dung lãnh đạo của cấp ủy. Bí thư cấp ủy và người đứng đầu các cơ quan chính quyền, đoàn thể phải chịu trách nhiệm đến cùng việc tổ chức thực hiện các chủ trương đã đề ra.

Cải tiến mạnh mẽ lề lối làm việc, sâu sát cơ sở, giảm bớt hội họp, nói ít làm nhiều, hướng vào giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc, có liên quan đến đời sống nhân dân. Tăng cường đối thoại với quần chúng nhân dân, chỉ đạo tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc và những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Sơ kết, tổng kết kịp thời những chủ trương công tác lớn; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan đảng các cấp.

II. PHÁT HUY VAI TRÒ CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ; XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH; NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ HIỆU LỰC ĐIỀU HÀNH, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và cơ quan thường trực Hội đồng nhân dân; nâng cao chất lượng các kỳ họp và trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân; phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; hoàn thành xây dựng trụ sở Trung tâm hành chính thành phố; kiện toàn bộ máy các cơ quan chính quyền thật tinh gọn, điều hành tập trung thống nhất và có hiệu quả. Tập trung củng cố chính quyền cấp cơ sở đủ sức quản lý và giải quyết theo thẩm quyền những vấn đề phức tạp nảy sinh trên địa bàn. Tăng cường trật tự kỷ cương trong quản lý hành chính đi đôi với mở rộng dân chủ trong xã hội. Tạo điều kiện thúc đẩy các dịch vụ công phát triển lành mạnh theo pháp luật để phục vụ tốt các yêu cầu đa dạng của nhân dân.

Tập trung xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, năng động, thực hiện đúng chức năng và quyền lực hành pháp, hoạt động có hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng vào dân, phục vụ dân, tôn trọng dân, phát huy sức dân, và chịu sự giám sát của dân. Tiếp tục triển khai có hiệu quả đề án tin học hóa hoạt động của các cơ quan hành chính thành phố.

III. PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN THÀNH PHỐ, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
Chăm lo củng cố sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, trọng tâm là thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, quan tâm đúng mức đến bộ phận nhân dân còn khó khăn. Thực hiện tốt hơn nữa Quy chế dân chủ ở cơ sở để khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo và nguồn lực trong nhân dân, tạo điều kiện để người dân thật sự làm chủ, đóng góp công sức xây dựng thành phố. Đi đôi với mở rộng dân chủ, phải nêu cao kỷ cương, phép nước.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận và các đoàn thể. Cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải làm tốt công tác vận động nhân dân, chăm lo lợi ích chính đáng, thiết thực của dân; sâu sát cơ sở, lắng nghe ý kiến của dân, giải quyết khó khăn, xử lý kịp thời các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Thực hiện thật tốt chính sách an dân, xây dựng niềm tin vững chắc của dân với Đảng. Kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội thực hiện tốt chức năng giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Mặt trận và các hội, đoàn thể phải đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, khắc phục bệnh quan liêu, hình thức, lối làm việc hành chính; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; quan tâm hơn đến lợi ích của hội, đoàn viên; thu hút đông đảo hơn nữa các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, đồng bào các tôn giáo, dân tộc, các cá nhân tiêu biểu tham gia các phong trào thi đua yêu nước.

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội sinh viên phải hết sức chú trọng tập hợp thanh niên vào tổ chức, chăm lo giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng giác ngộ chính trị cho thanh niên; đấu tranh chống lối sống thực dụng, phai nhạt lý tưởng cách mạng trong một bộ phận thanh, thiếu niên.

Liên đoàn Lao động phải chăm lo giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, chăm lo giải quyết việc làm cho đoàn viên, công nhân, lao động, đồng thời làm tốt công tác xã hội.

Hội Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh phải thực hiện tốt chủ trương xoá nghèo, nâng cao đời sống, phát huy vai trò nòng cốt trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng.

Phát huy trí tuệ, năng lực của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tài năng phát triển. Có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho giới công thương gia an tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, làm giàu cho mình và cho xã hội.

Thực hiện tốt chính sách của Đảng đối với đồng bào dân tộc, đồng bào có đạo.

Tăng cường vận động để đồng bào Quảng Nam, Đà Nẵng định cư ở nước ngoài hướng về quê hương, đất nước, đóng góp xây dựng thành phố.

Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Thông qua phong trào quần chúng để xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

*
* *

Sau 9 năm trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương với 2 nhiệm kỳ hoạt động, tiếp nối truyền thống anh hùng trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong xây dựng, Đảng bộ thành phố đã vừa là người lãnh đạo, vừa là người đồng hành với các tầng lớp nhân dân, cùng chia sẻ những khó khăn thách thức, đồng thời cả những niềm vui, niềm hạnh phúc được làm chủ một cơ đồ đang ngày càng phát triển, thịnh vượng. 5 năm sắp tới của nhiệm kỳ 2005 - 2010 sẽ tiếp tục thử thách ý chí, trí tuệ và sức lực của đảng bộ và nhân dân thành phố trên con đường tự hoàn thiện mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phải phấn đấu để sau mỗi chặng đường, nhất định chúng ta sẽ để lại những thành quả cụ thể cho lớp người kế tiếp. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tin tưởng chắc chắn rằng, với tinh thần đồng tâm nhất trí, với ý chí cách mạng kiên cường, toàn đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố nhất định vượt qua mọi khó khăn thách thức trong giai đoạn mới của cách mạng, lập nên những thành tích lớn lao hơn nữa, quyết tâm xây dựng Đà Nẵng ngày càng giàu đẹp, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

;
.
.
.
.
.