.

Đà Nẵng từ mùa xuân năm ấy

.

Ngày 29-3-1975 đã đi vào lịch sử của thành phố Đà Nẵng như một bản anh hùng ca bất diệt. Đó là ngày thành phố được giải phóng sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ, sau 30 năm chiến tranh giải phóng và sau 117 năm kể từ ngày thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta.

Mít-tinh mừng Đà Nẵng giải phóng tại Sân vận động Chi Lăng (1975). (Ảnh tư liệu) 

Chiến thắng oanh liệt giải phóng Đà Nẵng đã đẩy quân địch vào tình thế tuyệt vọng, tinh thần suy sụp, tổ chức tan rã, chiến lược, chiến thuật lâm vào thế bế tắc như đi vào ngõ cụt, tạo điều kiện và góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ mốc son lịch sử này, cùng với cả nước, nhân dân Đà Nẵng tiến bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Sau ngày quê hương được giải phóng, với những nỗ lực to lớn, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phòng-an ninh, củng cố hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, đập tan mọi âm mưu và thủ đoạn bao vây của các thế lực thù địch.

Năm 1986, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Qua 10 năm đầu tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới, Đà Nẵng thực sự trải qua những năm tháng trăn trở tìm tòi nhằm tháo gỡ khó khăn, xóa bỏ cơ chế, lề lối làm ăn cũ, xác lập cơ chế, cung cách làm ăn mới, đi dần vào thế ổn định và phát triển.

Ngày 1-1-1997, thành phố Đà Nẵng (cũ) cùng với các huyện Hòa Vang, Hoàng Sa được tách khỏi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng để thành lập đơn vị hành chính mới trực thuộc Trung ương. Sự kiện này đánh đấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng. Đà Nẵng như được tiếp thêm sức mạnh mới để bứt phá đi lên. Năm 2003, Đà Nẵng được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại 1 cấp quốc gia. Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã về làm việc với thành phố và ra Nghị quyết 33 về "Xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Từ đây, Đà Nẵng có điều kiện và cơ hội mới để phát huy tiềm năng, xây dựng thành phố trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước.

13 năm qua, kể từ ngày thành phố trực thuộc Trung ương, Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Kinh tế thành phố tăng trưởng liên tục qua các năm. Nếu tốc độ tăng trưởng GDP trong 4 năm 1997-2000 mới chỉ đạt 9,6% thì trong 5 năm 2001-2005 đã đạt 13% và trong 5 năm 2006-2010 đạt 12%. GDP bình quân đầu người năm 2000 là 628 USD, năm 2005 là 980 USD và năm 2010 dự kiến trên 2.000 USD. Quy mô sản xuất công nghiệp thành phố tăng nhanh, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 tăng 5,5 lần so với năm 1995, năm 2009 là 11.336 tỷ đồng. Giá trị sản xuất thủy sản-nông-lâm năm 2009 đạt 634 tỷ đồng.

Ngành Du lịch được tập trung đầu tư và phát triển nhanh, hướng đến mục tiêu ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Giai đoạn 1996-2000, lượng khách du lịch tăng bình quân 10,9%, doanh thu tăng 7,9%; giai đoạn 2001-2005 lượng khách tăng bình quân 12,5%, doanh thu tăng 9,9%; năm 2009, tổng lượng khách du lịch đạt 1,35 triệu lượt du khách, doanh thu 900 tỷ đồng; giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước thực hiện 8.375 tỷ đồng, tăng 15,3%.

Đà Nẵng hôm nay: Điểm hẹn mùa hè. Ảnh: Ngọc Hợi

Tổng kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 16,5%, giai đoạn 2001-2005 bình quân 17,5%. Năm 1997 thành phố chỉ xuất được chưa đến 50 triệu USD thì đến năm 2005 tăng 6 lần, đạt 346 triệu USD. Năm 2009, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thực hiện 1.005 triệu USD; bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 21.520 tỷ đồng, tăng 16,3%.

Kinh tế đối ngoại thành phố tiếp tục phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 2005, trên địa bàn thành phố có 79 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư trên 506 triệu USD. Đến cuối năm 2009, thành phố có 164 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 2,62 tỷ USD; vốn thực hiện đạt 1,29 tỷ USD, chiếm 49,2% tổng vốn đầu tư với 96 dự án đã đi vào hoạt động, chiếm 58,5% dự án được cấp phép.

Những thành tựu đạt được trong 13 năm qua đã thực sự tạo ra bước chuyển biến có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, phải kể đến nét nổi bật nhất là công cuộc quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng gắn liền với chỉnh trang và phát triển đô thị. Chi ngân sách địa phương cho đầu tư xây dựng cơ bản năm 1997 là 176,9 tỷ đồng, năm 2005 là 3.931 tỷ đồng, đến năm 2009 là 4.535 tỷ đồng. Năm 2009, tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đạt 15.300 tỷ đồng, tổng thu ngân sách là 7.362,2 tỷ đồng.

Thành tựu trên lĩnh vực này đã làm cho thành phố mỗi ngày thêm mới hơn, đẹp hơn, rộng ra và cao thêm từng ngày. Những chiếc cầu mới bắc qua sông Hàn, những con đường mới khang trang, những khu dân cư mới hiện đại, cùng với những ngôi trường, nhà máy, siêu thị, khu du lịch, khu công nghiệp mới nối tiếp nhau ra đời thay thế cho những xóm nhà chồ, những khu dân cư ổ chuột, những con hẻm chật chội và thiếu ánh sáng... Hạ tầng viễn thông, cảng biển, sân bay, điện lực, cấp thoát nước... đều có bước phát triển rất mạnh mẽ. Nông thôn cũng thay đổi từng ngày. Hệ thống điện, đường, trường, trạm được xây dựng nhanh chóng và đồng bộ. Hàng loạt các công trình mới ra đời luôn gắn liền với sự đồng thuận của người dân thành phố. Hơn 85 ngàn hộ gia đình đã vui lòng giao đất, chuyển đến nơi ở mới vì sự ra đời của các công trình, vì sự phát triển đi lên của thành phố.

Sự tăng trưởng kinh tế của thành phố gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Sự nghiệp giáo dục-đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể dục-thể thao không ngừng phát triển. Chương trình thành phố "5 không", "3 có" cùng với các chính sách xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, chăm sóc người có công, giúp đỡ các đối tượng xã hội... đã đưa lại những hiệu quả rõ rệt về cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao dân trí, củng cố quốc phòng-an ninh; giữ ổn định bền vững về chính trị và trật tự xã hội.

Công tác xây dựng Đảng, cải cách hành chính đã được tăng cường; hoạt động của hệ thống chính trị được đổi mới và nâng cao chất lượng. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội được nâng cao; quy chế dân chủ cơ sở được triển khai thực hiện có kết quả; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được phát huy. Từ năm 2006 đến nay, việc triển khai thực hiện "Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" do Trung ương Đảng phát động đã thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, làm theo. Cuộc vận động đã và đang đi vào đời sống, lan tỏa trong xã hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức trong xã hội, củng cố niềm tin vào một tương lai tốt đẹp của đất nước.

Những thành tựu đạt được trong 35 năm qua, đặc biệt trong 13 năm thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương là rất to lớn và toàn diện. Bằng những việc làm cụ thể, sáng tạo, thiết thực, hiệu quả và an dân, vì dân, Đà Nẵng đã tạo ra được sự đồng thuận xã hội, và đó chính là cơ sở để thành phố mạnh dạn triển khai nhiều chủ trương nhằm xây dựng thành phố không ngừng phát triển. Thành tựu đó tạo tiền đề vững chắc cho những bước phát triển cao hơn, nhanh hơn, bền vững hơn của thành phố, để nhanh chóng xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế-xã hội lớn của miền Trung với vai trò là trung tâm công nghiệp, thương mại du lịch và dịch vụ; là thành phố cảng biển, đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính-viễn thông và tài chính-ngân hàng; một trong những trung tâm văn hóa-thể thao, giáo dục-đào tạo và khoa học công nghệ của miền Trung; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng-an ninh của khu vực miền Trung và cả nước.

Phạm Phú Bình

;
.
.
.
.
.