.

Trên núi Nghĩa Lĩnh hát lời người xưa

.

Bầu không khí mùa xuân trên vùng non thiêng Nghĩa Lĩnh vào những ngày trẩy hội Giỗ tổ Hùng Vương đang đến gần, dường như mọi con đường râm mát rợp bóng đại ngàn, nơi đâu cũng tưởng chừng như có tiếng đồng vọng dễ làm lòng người xao xuyến trước uy linh núi non trầm hùng. Từ dưới chân núi, một tốp nam nữ thanh niên đang hướng về phía đền Hạ, vừa đi họ vừa rập ràng hát vang vang những bài ca của Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Văn Cao... Cứ thế bài nọ nối tiếp bài kia khí thế dâng tràn.

Quang cảnh trước đền Hùng. Ảnh: V.NỞ
Quang cảnh trước đền Hùng. Ảnh: V.NỞ

Không khí tưng bừng đó làm tôi liên tưởng đến một thời điểm đặc biệt trong cuộc đời hoạt động âm nhạc của Giáo sư - Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước - một nhạc sĩ lớn của dân tộc, người suốt một cuộc đời, bằng sức sáng tạo âm nhạc của mình đã tiếp lửa cho nhiều thế hệ thanh niên lên đường xung trận. Cho mãi đến bây giờ, những bài hành ca của ông đã trở thành kinh điển trong mọi dịp sinh hoạt cộng đồng. Thời điểm đặc biệt mà tôi liên tưởng tới chính là, ngay tại chân núi Nghĩa Lĩnh này đây, vào ngày Giỗ tổ Hùng Vương cách nay 70 năm (mùng 10 tháng 3 năm 1942), nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã làm người lĩnh xướng cho hàng ngàn nam nữ thanh niên và sinh viên, học sinh hát vang trời những bài hành khúc hừng hực chất lửa ấy.

Có lẽ bây giờ ngồi nhớ lại, ta khó có thể hình dung hết hoàn cảnh đất nước vào cái thời mà bóng tối thực dân hầu như bao trùm lên tất cả ấy, lại chính là buổi ra đời bình minh nhạc Việt. Cùng với những cánh chim đầu đàn như Thẩm Oánh, nhóm Myosotic, Văn Chung nhóm Tricéa hay như Hoàng Quy nhóm Đồng Vọng, Lưu Hữu Phước là thủ lĩnh của nhóm Tổng hội sinh viên - một tập hợp mà theo nhạc sĩ Lê Thương là: “Kể về sinh hoạt văn nghệ từ năm 1943 - 1945 thì Tổng hội sinh viên đã chế ngự phong trào tân nhạc và gây những ảnh hưởng sâu đậm chưa từng có (Thời tiền chiến trong tân nhạc 1938 - 1946).

 Làm người lĩnh xướng cho cả một phong trào, tạo ra những ảnh hưởng sâu đậm chưa từng có trong bối cảnh đất nước thuở còn trong bóng đêm một trăm năm nô lệ giặc Tây, hẳn tài năng và tâm huyết của Lưu Hữu Phước phải là tiếng còi chiêu lệnh, đủ sức réo gọi thanh niên và sinh viên học sinh mọi miền đất nước. Hàng ngàn trái tim của cả một thế hệ trai trẻ ấy, lần đầu tiên được tập hợp lại trong ngày trẩy hội đền Hùng hát vang bài ca Thanh niên vào thời đất nước còn ngoại xâm nội thuộc, có thể nói đấy là một cuộc hành quân kỳ vĩ. Và âm nhạc Lưu Hữu Phước, ngay từ buổi khai sinh đã đích thực là ngọn lửa dẫn đường!
 Lưu Hữu Phước, là một trong số hiếm hoi những nhạc sĩ tiên phong từ buổi bình minh của nền tân nhạc, đã thắp lên những ánh lửa khai mở một con đường riêng, và cùng với dân tộc đi suốt qua bao cuộc trường chinh kháng chiến. Từ những ngày ông đang là học sinh Petrus Ký – Sài Gòn vào năm 1939, Lưu Hữu Phước đã cùng những người bạn thân của mình thành lập câu lạc bộ học sinh (Scholar Club). Cũng trong thời gian này, ông đã sáng tác ca khúc La Marche des étudiants cho câu lạc bộ, bài hát do Mai Văn Bộ viết lời, một Hành khúc sinh viên khởi đầu sự nghiệp âm nhạc của Lưu Hữu Phước, mà sức sống kỳ lạ của nó qua nhiều thời kỳ cũng đủ làm nên huyền thoại tuổi tên ông.

Dường như mẫu nghệ sĩ kiểu như Lưu Hữu Phước, mỗi tác phẩm ra đời là một ngọn lửa, một ánh đuốc dẫn đường. Nó phải như thế, không thể nào khác.  Hàng loạt  ca khúc của ông sáng tác vang dội những thanh âm hào hùng của lịch sử. Nói cách khác, lịch sử tuần hoàn trong máu huyết nghệ sĩ của Lưu Hữu Phước để ông xây thành bao tượng đài lịch sử bằng âm thanh.

Đông đảo người con đất Việt về dự Lễ Giỗ Tổ hằng năm.     Ảnh: V.Nở
Đông đảo người con đất Việt về dự Lễ Giỗ Tổ hằng năm. Ảnh: V.Nở

Vào giai đoạn khai mở nền nhạc Việt, gần như xuyên suốt các sáng tác của Lưu Hữu Phước đều là đề tài lịch sử. Cho đến về sau này, đứng trong đội ngũ kháng chiến cùng dân tộc ra trận qua các cuộc chiến tranh vệ quốc, hay giữ những cương vị lãnh đạo, âm hưởng nhạc ông tuy tiếp cận những đề tài hiện đại hơn, nhưng có lẽ không xa rời cho lắm bước đi của từng thời kỳ lịch sử. Những bài ca: Hành khúc giải phóng, Xuống đường, Tiến về Sài Gòn… vẫn khí thế ấy, hừng hực từng bước chân thôi thúc đường ra mặt trận. Đặc biệt bài Giải phóng miền Nam của ông trở thành bài Quốc ca của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, cho dù ông ký tên là Huỳnh Minh Siêng hay là bút danh nào chăng nữa thì vẫn là một Lưu Hữu Phước như thuở ban đầu.

Vâng, cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, có ai ngờ, như tôi vừa trình bày trên, cái bài ca La Marche des étudiants của ông, trong chuyến hành hương trẩy hội đền Hùng năm xưa, Lưu Hữu Phước đã sửa phần lời thành bài Tiếng gọi sinh viên, cho hàng ngàn nam nữ thanh niên hát vang lừng trong ngày hội Giỗ tổ Hùng Vương. Kể từ đấy, và cho mãi về sau này, bài ca lại được đổi tên thành Tiếng gọi thanh niên, được phổ biến rộng rãi khắp mọi miền đất nước. Sức sống kỳ lạ của nó là ở chỗ, bài ca này lại thêm một lần đổi tên sửa lời, và trở thành… quốc ca của chế độ Sài Gòn vào thời đất nước còn chia cắt hai miền Nam - Bắc. Sự trớ trêu của lịch sử đã biến ông thành một nhạc sĩ có một không hai, bởi những ca khúc của ông một thời hát vang dưới cờ ở hai bờ chiến tuyến.

 Đấy là văn hóa, là một giá trị nghệ thuật mà tự thân của nó có sức chứng minh, rằng không chỉ có khả năng chiến thắng được thời gian mà còn chiến thắng cả bất cứ tường vách thành lũy nào trong mọi mưu đồ chia cắt đất nước. Gọi ông là nhạc sĩ chính ca, tráng ca, hành khúc ca hay là gì chăng nữa, thì những đỉnh cao tác phẩm của ông vẫn là những ngọn lửa được thắp lên từ một trái tim sáng ngời lòng yêu nước, có sức lay động mọi tâm hồn đứng lên đáp lời sông núi, xông pha trận mạc cứu nước cứu dân thoát khỏi gông cùm nô lệ.

Trên con đường mùa xuân hành hương về trẩy hội đền Hùng bây giờ, những nam nữ thanh niên hớn hở hồn nhiên tràn sức thanh xuân ấy, một ngẫu nhiên thôi hay là họ đang lần theo dấu chân người xưa qua đây mà rập ràng bài ca “Lên đàng” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Những ngọn gió dạt dào thổi trên vùng non thiêng Nghĩa Lĩnh chừng như cũng biết hợp xướng với người, cứ vọng lên một thứ thanh âm bè trầm da diết. Người lĩnh xướng cho đoàn sinh viên hát vang dưới chân núi này 70 năm về trước, giờ đây trong gió ấy hồn nước có đưa người về!

Đà Nẵng, Xuân Nhâm Thìn 2012            

Nguyễn Nhã Tiên

;
.
.
.
.
.