.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XVIII

.

Từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đến nay, mặc dù còn những khuyết điểm, hạn chế, thành phố Đà Nẵng đã có bước phát triển năng động, đạt được những thành quả to lớn đáng tự hào. Những thành quả đó là kết tinh công sức, trí tuệ của quân và dân thành phố dưới sự lãnh đạo của đảng bộ trong nhiệm kỳ qua; đồng thời không tách rời những thành tựu to lớn rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Đại hội lần thứ XVIII đảng bộ thành phố có nhiệm vụ đánh giá nghiêm túc thực trạng tình hình hoạt động của đảng bộ nhiệm kỳ qua, nhận định đúng tình hình thành phố những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp cho chặng đường 5 năm sắp tới (2001-2005) nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn đảng bộ, toàn quân, toàn dân từng bước xây dựng Đà Nẵng thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ của miền Trung và cả nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT NHIỆM KỲ XVII

Bối cảnh chung của toàn thành phố trong bốn năm qua, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản cũng có không ít khó khăn thách thức, ảnh hưởng đến tình hình thực hiện nhiệm vụ của đảng bộ.

Vị thế mới của thành phố đã mang lại niềm phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; với vị thế ấy, Đà Nẵng có thêm sức thu hút trên một số lĩnh vực nhất định, đồng thời cũng có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tranh thủ sự quan tâm trực tiếp của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương và sự phối hợp của các địa phương bạn. Việc khai thác và phát huy nội lực của thành phố được tăng cường, sự đầu tư của nhân dân cho sản xuất kinh doanh, nâng cấp cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị cũng phát triển mạnh hơn.


Bên cạnh một số thuận lợi nêu trên, trong bốn năm qua thành phố vẫn còn nhiều khó khăn thách thức. Là một đơn vị hành chính được tách ra từ một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, so với các thành phố lớn trong cả nước, điểm xuất phát của nền kinh tế thành phố Đà Nẵng đang ở mức thấp; cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế so với yêu cầu phát triển; sức cạnh tranh của hàng hóa còn yếu, ngay cả với thị trường nội địa; chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực còn nhiều bất cập; bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là ở những ngành và lĩnh vực quan trọng; tình trạng tham nhũng, quan liêu chưa được đẩy lùi. Một số vấn đề xã hội đặt ra chưa giải quyết tốt.

Những khó khăn, yếu kém chủ quan nêu trên cùng với ảnh hưởng của những yếu tố khách quan, đặc biệt là những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đối với nhiều lĩnh vực phát triển của thành phố và tình hình thiên tai diễn ra dồn dập, càng làm cho khó khăn thêm nặng nề.

2- Trong bối cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân thành phố đã phấn đấu đạt được những thành quả to lớn trên nhiều mặt, tạo nên những biến đổi rõ rệt về nhịp độ và khí thế phát triển.

Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm nôi địa (GDP) 1997-2000 bình quân hàng năm tăng 10,19%, (bằng 1,47 lần so với mức bình quân chung cả nước). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18,96%; dịch vụ tăng 6,95%; nông - lâm, thủy sản tăng 3,83%.

Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tương đối tỷ trọng nông nghiệp, phù hợp với xu thế chung của cả nước và các đô thị lớn. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 35,31% năm 1997 đã tăng lên 40,75% năm 2000; Tỷ trọng dịch vụ đạt 51,7%; nông - lâm - thủy sản từ 9,7% giảm xuống 7,6%.

Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 17,79%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân hàng năm 7,54%, chiếm 22% so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 34,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tiếp thu công nghệ mới và giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn.

Thế mạnh về dịch vụ, du lịch đã có thêm những điều kiện và triển vọng phát triển mới; doanh thu du lịch tăng hơn, số lượng khách trong nước và nước ngoài đến thành phố ngày càng nhiều, môi trường du lịch được cải thiện, sản phẩm du lịch mới đã được khai thác bước đầu có hiệu quả.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong những năm qua bước đầu chuyển đổi theo hướng tăng cây thực phẩm, cây ăn quả và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi, chú trọng việc đầu tư thêm công suất tàu thuyền, đặc biệt là tàu thuyền có công suất lớn khai thác xa bờ để nâng cao sản lượng đánh bắt hải sản. Cảng cá Thuận Phước đã được đầu tư xây dựng đưa vào khai thác.

Thu - chi ngân sách trên địa bàn được đảm bảo, đầu tư cho phát triển được chú trọng. Đà Nẵng là một trong những địa phương có đóng góp cho ngân sách Trung ương.

Thành quả nổi bật trong bốn năm qua là việc đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, nhất là hệ thống giao thông, cảng biển, mạng lưới điện, bưu chính viễn thông v.v…Cùng với những công trình do Trung ương đầu tư, thành phố cũng đã chủ động xây dựng mới và nâng cấp một số công trình trọng điểm như cầu Sông Hàn, những tuyến đường lớn: Cách mạng Tháng Tám, Trần Cao Vân, Nguyễn Tri Phương, Lê Duẩn…bên cạnh đó là các khu dân cư mới hình thành như Thạc Gián - Vĩnh Trung, Bạch Đằng Đông…Những kết quả cụ thể nói trên của việc chỉnh trang đô thị đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt thành phố, tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế, thu hút các nhà đầu tư, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Trong thời gian ngắn, những công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng đã chứng tỏ kết quả của việc khai thác và phát huy nội lực của thành phố theo phương châm” Nhà nước và nhân dân cùng làm”.. Trong bốn năm nhân dân đã đóng góp tiền mặt, đất đai và các công trình, vật kiến trúc với tổng giá trị trên 100 tỷ đồng cộng với hàng vạn ngày công để xây dựng mới và nâng cấp đường giao thông đô thị, bê tông hóa vỉa hè và kiệt hẻm, xây mới và khơi thông mương thoát nước, trang bị hệ thống điện chiếu sáng, nâng cấp trạm xá, trường học, chợ nông thôn và hệ thống giao thông nông thôn.

Thành phố cũng đã có nhiều đề án thiết thực, có trọng điểm nhằm phát triển kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII). Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước được duy trì, được xác định là nhân tố chủ yếu để định hướng phát triển kinh tế thành phố. Bên cạnh đó việc phát huy năng lực và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế trên địa bàn cũng được coi trọng. Chủ trương sắp xếp lại và cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước được quan tâm thực hiện, đạt một số kết quả ban đầu. Đến cuối năm 2000, đã có 10 doanh nghiệp trên địa bàn thành phố thực hiện cổ phần hóa.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội được chỉ đạo tập trung và chủ động hơn, theo hướng phấn đấu tạo cân đối với tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Những quan điểm lớn của Đảng về văn hóa xã hội được quán triệt trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt hoạt động thuộc lĩnh vực này.

Quan điểm xây dựng và phát huy nguồn lực con người được thể hiện trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các hoạt động giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, thể dục - Thể thao v.v… với những chủ trương và biện pháp cụ thể nhằm thực hiện các chỉ tiêu, chỉ số phát triển nhân lực. Đến cuối năm 2000, thành phố đã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Khoa học - công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống, ngày càng được chú trọng trong quá trình hoạch định và tiến hành các đề án phát triển kinh tế - xã hội. Việc xử lý môi trường đô thị được đặt ra tích cực hơn. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khỏe sinh sản, dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em vì sự tiến bộ của phụ nữ…được triển khai có hiệu quả trên diện rộng. Nhiều bệnh dịch được khống chế và đẩy lùi; các bệnh xã hội giảm rõ rệt, riêng bệnh phong được thanh toán trên quy mô thành phố. Phong trào thể dục - thể thao quần chúng với nhiều hình thức phong phú đa dạng đang phát triển rộng rãi; thể thao thành tích cao được chú ý đẩy mạnh.

Quan điểm xã hội hóa các hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng được chỉ đạo tích cực, góp phần đap ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân thành phố. Bên cạnh hệ thống các cơ sở công lập được thường xuyên tăng cường đầu tư nhân lực, thiết bị hiện đại, các loại hình ngoài công lập cũng phát triển đa dạng. Hệ thống trường bán công, dân lập, tư thục được thiết lập ở các bậc học mầm non, phổ thông trung học và dạy nghề, kể cả Đại học dân lập. Mạng lưới hành nghề y - dược tư nhân, các bệnh viện tư đang phát triển và được quản lý ngày càng tốt hơn.

Các hoạt động văn hóa thấu suốt quan điểm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và địa phương gắn với yêu cầu hiện đại. Môi trường văn hóa thành phố nhìn chung lành mạnh. Tiềm năng văn hóa cơ sở được phát huy. Hoạt động văn học nghệ thuật có những chuyển biến tốt. Báo chí, xuất bản ngày càng cố gắng vươn lên xứng đáng với vai trò là tiếng nói của Đảng và chính quyền, là diễn đàn của nhân dân.

Những vấn đề bức xúc về xã hội được chỉ đạo giải quyết trên quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc thực hiện chế độ cho các đối tượng chính sách ngày càng đảm bảo và đi vào nền nếp. Những đề án về nâng cao đời sống đồng bào các xã miền núi và vùng lũ lụt đã phát huy hiệu quả thiết thực. Vấn đề giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo đã đem lại kết quả tốt, xuất hiện nhiều cách làm sáng tạo. Đến cuối năm 2000, tính theo chuẩn cũ, thành phố đã xóa được hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 1,65% tổng số hộ.

Quốc phòng an ninh và công tác nội chính trên địa bàn tiếp tục được củng cố, giữ vững được ổn định chính trị, không để xảy ra điểm nóng, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo. Các cấp ủy Đảng, chính quyền coi trọng lãnh đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực cho quốc phòng an ninh; giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng gắn với xây dựng khu vực phòng thủ thành phố. Cấp ủy thành phố đã quán triệt và tổ chức triển khai Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Các lực lượng vũ trang bao gồm quân sự, công an, bộ đội biên phòng thường xuyên rèn luyện nang cao bản lĩnh chính trị, khả năng chiên đấu và sẵng sàng chiến đấu. Thế trận toàn dân gắn với an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được giữ vững. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý xây dựng quân dự bị động viên, dân quân tự vệ, công tác hậu cần quân đội, vận động quần chúng…có tiến bộ. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng và đồng bộ, xây dựng được thực lực chính trị ở cơ sở.

Công tác giáo dục đề cao ý thức cảnh giác chống tội phạm, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật được tiến hành có kế hoạch và tương đối thường xuyên. Sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành đồng bộ hơn. Bước đầu đã đạt được một số kết quả trong đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội.

Công tác vận động quần chúng có nhiều cố gắng nhằm củng cố khối đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ giữa đảng, chính quyền và nhân dân. Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới có chuyển biến rõ hơn; đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, khơi dậy được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nổi bật là việc huy động sự đóng góp to lớn của các tầng lớp nhân dân phục vụ chỉnh trang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác. Đặc biệt, qua thử thách trong thiên tai bão lũ, tình làng nghĩa xóm càng thêm gắn bó, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân càng được củng cố và tăng cường. Quy chế dân chủ đã được triển khai thực hiện rộng rãi trong các loại hình cơ sở; dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được mở rộng, nhân dân tham gia ngày càng nhiều và việc quản lý xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách của đảng bộ và chính quyền các cấp.

Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng được phát huy, các hoạt động đều hướng về cơ sở, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Các tổ chức như Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân thành phố và các Hội quần chúng khác ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng thành phố, tạo ra sự đồng thuận trong xã hội phấn đấu vì mục tiêu chung. Các phong trào quần chúng đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn. Phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” gắn với cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” cùng với các phong trào khác như đền ơn đáp nghĩa ngươì có công với nước, chăm sóc, phụng dưỡng các Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; phong trào lao động sáng tạo, giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai, tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo, khuyến học, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội…được duy trì và phát triển rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Cùng với những nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế qua hoạt động đối ngoại nhân dân,những đóng góp của nhân dân thành phố trong các cuộc vận động nói trên cũng đã thu được nhiều kết quả thiết thực. Thông qua phong trào quần chúng, Mặt trận và các hội, đoàn thể kiện toàn về tổ chức, mở rộng hoạt động, phát triển thêm nhiều hội viên, đoàn viên.

Công tác xây dựng chính quyền đã đạt được những kết quả cụ thể. Ngày sau khi tách tỉnh, chính quyền các cấp đã nhanh chóng được hình thành và từng bước được củng cố; hiệu lực quản lý Nhà nước được nâng cao, công tác chỉ đạo, điều hành các mặt kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh được chủ động hơn nhằm giải quyết kịp thời, đúng đắn nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền. Vai trò của các cơ quan dân cử được phát huy, việc bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân các cấp tiến hành chặt chẽ và đúng luật định. Công tác cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực quan trọng như nhà, đất, xây dựng cơ bản, cấp phép kinh doanh, đầu tư nước ngoài, công chứng...có tiến bộ. Nhiều quy định của Nhà nước đã được công khai hóa để dân biết, kiểm tra, giám sát. Việc phân cấp cho địa phương và ngành từng bước được thực hiện tốt hơn.

Từ sau Đại hội XVII đến nay, Đảng bộ đã tập trung tiến hành công tác xây dựng Đảng và thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Các cấp ủy Đảng đã chú trọng tăng cường công tác tư tưởng, tổ chức quán triệt nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng gắn với tổ chức học tập nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng; đấu tranh uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán các quan điểm sai trái, những biểu hiện dao động về tư tưởng. Các cấp ủy Đảng và các cơ quan chuyên trách về công tác tư tưởng đã tiến hành nhiều hình thức, phương pháp nhằm cung cấp thông tin, bồi dưỡng và phát huy truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của đảng bộ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; củng cố sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, trong toàn xã hội về mục tiêu, lý tưởng, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Công tác tư tưởng đã cố gắng bám sát cơ sở, giải quyết những vấn đề cụ thể đang đặt ra, góp phần quan trọng củng cố lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, động viên cán bộ, đảng viên khắc phục khó khăn, đẩy mạnh các phong trào hoạt động cách mạng, tạo được khí thế sôi nổi của quần chúng trên các lĩnh vực hoạt động, nhất là trong dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn.

Về tổ chức bộ máy, các ban của Đảng, các Đảng ủy trực thuộc được sắp xếp lại, bộ máy chính quyền và các tổ chức hoạt trong hệ thống chính trị được kiện toàn, hoạt động có hiệu quả, sâu sát thực tiễn hơn. Việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ nhìn chung thực hiện đúng quy trình, bảo đảm dân chủ và công khai. Công tác quy hoạch cán bộ được triển khai gắn với việc xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ được đẩy mạnh với nhiều phương thức đa dạng, tạo thuận lợi cho cán bộ, đảng viên theo học, góp phần nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ, nhất là trình độ lý luận chính trị. Nhiệm kỳ qua có 2.400 cán bộ, đảng viên trong đảng bộ được học các chương trình lý luận chính trị.

Việc quản lý đảng viên từng bước đi vào nền nếp. Hơn 12.000 đảng viên đương chức ở các cơ quan đã được giới thiệu về sinh hoạt với cấp ủy nơi cư trú, giữ mối liên hệ thường xuyên với địa bàn dân cư. Số đảng viên phát huy tác dụng tốt (loại 1) đạt tỷ lệ trên 80% tổng số đảng viên. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình doanh nghiệp, trường học, bệnh viện và phường, xã có tiến bộ. Qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), bước đầu đã khắc phục được sự sa sút, yếu kém của một số tổ chức cơ sở đảng, cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, kiện toàn cấp ủy, đề ra nhiều biện pháp nhằm tăng cường giáo dục, quản lý đảng viên; thực hiện tự phê bình, phê bình, củng cố đoàn kết nội bộ. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng được quán triệt và thực hiện tốt hơn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân đảng viên được tăng cường, những trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước được đưa ra xem xét, xử lý nghiêm túc. Nhờ đó, nhiều tổ chức, cơ sở Đảng đã phát huy được vai trò lãnh đạo chính trị tại địa phương, đơn vị; hàng năm có hơn 70% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Công tác tuyên truyền, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới được tiến hành thường xuyên, cả nhiệm kỳ đã kết nạp được 4.028 đảng viên mới, trong đó tỷ lệ nữ 36,19%, trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm tỷ lệ trên 40%.

Các cấp ủy đảng chú trọng triển khai công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chỉ đạo xác minh, xử lý kịp thời những vấn đề lịch sử chính trị để phục vụ cho công tác cán bộ, công tác phát triển đảng viên mới và công tác nhân sự đại hội đảng các cấp.

Nhiệm kỳ qua, các cấp ủy đảng đã tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên tiến hành kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và xử lý các sai phạm của tổ chức Đảng, đảng viên các cấp ủy đã nêu cao trách nhiệm lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra. Nhìn chung, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã được củng cố, kiện toàn một bước, tổ chức thực hiện có kết quả nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ do cấp ủy cùng cấp giao.

Các cấp ủy đảng coi trọng đổi mới, cải tiến phương thức lãnh đạo và lề lối công tác, xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị, qua đó nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức Đảng.

Nhìn chung công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong nhiệm kỳ qua, đảng bộ đã đề ra được nhiều chủ trương đúng đắn, phù hợp. Đến nay, tình hình tư tưởng chính trị của đảng bộ cơ bản ổn định; tổ chức bộ máy các cấp, nhất là cấp cơ sở được củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ, đảng viên được giáo dục, rèn luyện và nâng cao trình độ về mọi mặt. Nhờ đó, đảng bộ đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đạt nhiều kết quả, phát huy được nguồn lực to lớn trong dân, tạo khí thể sôi nổi qua các phong trào quần chúng.

Những thành quả đạt được trên các lĩnh vực tuy mới chỉ bước đầu nhưng có ý nghĩa quan trọng, tạo đà cho sự phát triển lâu dài, bền vững của thành phố, những thành quả đó chứng tỏ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về mặt xác lập cho Đà Nẵng vị trí một thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời không tách rời sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ có nhiều hiệu quả của Trung ương và sự phối hợp của các địa phương trong cả nước. Những thành quả đạt được còn là kết quả của sự phấn đấu vươn lên với khí thế tiến công của toàn đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố quyết tâm xây dựng quê hương, thể hiện sự đồng tình của các tầng lớp nhân dân đối với những chủ trương lớn nhằm phát triển toàn diện thành phố, bài học lớn rút ra từ những thành quả đã đạt được là: Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng được khối đoàn kết, trước hết từ trong cấp ủy, chính quyền các cấp; định ra chủ trương đúng đắn, phù hợp; khơi dậy và phát huy được sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân, tạo thành phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp trên cơ sở đó là chỉ đạo sâu sát nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đã đề ra.

3. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo các lĩnh vực hoạt động của thành phố, chúng ta vẫn còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình phát triển.

Về kinh tế, chúng ta còn thiếu những giải pháp mang tính đột phá nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng và lợi thế của thành phố. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa ổn định; nhiều chỉ tiêu chưa đạt mức Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. GDP bình quân đầu người năm 2000 mới chỉ đạt 488 USD, còn thấp so với nhiều thành phố lớn trong nước.

Các lĩnh vực sản xuất, thương mại, du lịch, dịch vụ, kinh tế đối ngoại phát triển chậm. Công nghiệp chưa hình thành được các ngành mũi nhọn, chưa có những sản phẩm chủ lực, nhiều doanh nghiệp sản phẩm chất lượng thấp, sức cạnh tranh yếu, hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao. Trong nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chậm. Việc chỉ đạo đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm thích đáng. Một số ngành dịch vụ mới còn ở mức sơ khai như dịch vụ tài chính, tiền tệ, dịch vụ khoa học công nghệ. Thế mạnh về kinh tế biển chưa được khai thác đúng mức, ngành nghề dịch vụ còn kém phát triển. Lĩnh vực xuất khẩu chưa vượt qua được những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường, chậm khai thác các thị trường mới và mở rộng các thị trường đã có. Những năm gần đây, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào địa bàn thành phố giảm sút. Việc thu hút vốn ODA bị hạn chế, nhiều dự án dùng nguồn vốn ODA tiến độ giải ngân chậm. Chậm có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp và khu chế xuất, do đó hoạt động của các khu vực này chưa tương xúng với tiềm năng.

Việc xây dựng quan hệ sản xuất mới chưa được quan tâm đúng mức. Thực hiện chủ trương đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu: Triển khai cổ phần hóa so với mục tiêu còn chậm; việc hợp nhất, sáp nhập đạt kết quả thấp; chủ trương giao, bán, khoán, cho thuê chưa được triển khai cụ thể. Một số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài vẫn chưa có biện pháp xử lý dứt điểm làm hạn chế vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Việc củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã còn nhiều lúng túng. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm hỗ trợ đúng mức. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn còn bộc lộ nhiều yếu kém.

Về văn hóa - xã hội, nhìn chung đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, mức hưởng thụ văn hóa còn hạn chế, nhất là đồng bào ở địa bàn miền núi, ven biển và các gia đình thuộc diện chính sách.

Nhiều vấn đề xã hội bức xúc như thiếu việc làm, môi trường sống bị ô nhiễm, tệ nạn xã hội...chưa được giải quyết tốt. Một số biểu hiện tiêu cực trong khám chữa bệnh và trong dạy thêm vẫn đang là một băn khoăn của xã hội, trước hết là của những gia đình có thu nhập thấp. Tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao: 6,17% lao động không đủ việc làm chiếm tới 4,35% lực lượng lao động; 76,3% người lao động hiện nay chưa qua đào tạo nghề (chỉ tiêu của Đại hội XVII là đến năm 2000, lực lượng lao động có tay nghề đạt 30% trên tổng số lao động có việc làm). Kết quả phân luồng sau trung học phổ thông theo hướng đào tạo nghề còn rất hạn chế, mỗi năm chỉ chiếm khoảng 14% số học sinh tốt nghiệp.

Công tác quản lý đô thị còn nhiều bất cập thể hiện trong triển khai quy hoạch chi tiết, trong quản lý nhà đất, xây dựng cơ bản, trật tự an toàn giao thông quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và các hoạt động bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ô nhiễm cục bộ ở một số khu vực khá nghiêm trọng chưa được đầu tư xử lý đúng mức. Ý thức tự giác bảo vệ môi trường công cộng còn hạn chế, chưa trở thành thói quen trong đại bộ phận dân cư nhưng chưa có biện pháp điều chỉnh tích cực.

Về quốc phòng an ninh, so với yêu cầu mới đang đặt ra, thế trận quốc phòng toàn dân chưa thật sự vững chắc, khả năng phòng thủ còn hạn chế. Chất lượng toàn diện của các lực lượng vũ trang chưa cao. Công tác giáo dục quốc phòng, giáo dục pháp luật tiến hành chưa sâu rộng, một bộ phận cán bộ và nhân dân còn mơ hồ mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn chống phá thâm độc tinh vi của các thế lực thù địch. Công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa có lúc, có nơi còn sơ hở. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tuy đã đạt được một số kết quả cụ thể nhưng nhìn chung chưa được tiến hành mạnh mẽ, kịp thời. Công tác xây dựng nội bộ ở một số cơ quan nội chính chưa được tăng cường đúng mức. Còn lúng túng trong việc tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, vừa đảm bảo cho các cơ quan nội chính hoạt động có hiệu quả, vừa đồng thời tạo điều kiện thông thoáng cho phát triển kinh tế.

Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thường xuyên chăm lo công tác dân vận. Phong trào quần chúng phát triển chưa đều, quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ, tình trạng dân chủ hình thức vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp, nhiều nơi, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các hội, đoàn thể ở một số nơi còn lúng túng, ít hiệu quả. Việc tập hợp lực lượng thanh niên và công tác giáo dục thanh thiếu niên ở các địa bàn dan cư còn yếu. Năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước và vai trò chỉ đạo, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa được nâng lên ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới. Một số cơ quan, đơn vị chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ hoạt động chồng chéo, không phát huy được vai trò tham mưu. Cải cách hành chính có tiến bộ nhưng chưa loại trừ hết những thủ tục gây phiền hà cho dân, gây trở ngại cho sản xuất, kinh doanh.Tệ cửa quyền, nhũng nhiễu của một số cán bộ, công chức chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Trật tự xã hội và kỷ cương pháp luật ở một số nơi chưa nghiêm.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy được tiến hành thường xuyên nhưng vẫn còn những biểu hiện đáng lo ngại. Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về một số chủ trương, chính sách đổi mới chưa được nhận thức đúng để nhất trí cao trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Việc định hướng tư tưởng cho đảng viên, quần chúng làm chưa tốt; tệ phát ngôn vô tổ chức, tung tin thất thiệt chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Chưa có biện pháp thật cụ thể, sâu sát để tăng cường công tác quản lý, giáo dục đảng viên về phẩm chất, đạo đức, lối sống; một số ít cán bộ, đảng viên sa ngã trước cám dỗ của mặt trái kinh tế thị trường. Việc thực hiện dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng chưa đúng mức. Tinh thần tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa cao, trong một số tổ chức đảng và cấp ủy đảng vẫn còn tình trạng nể nang, xuê xoa, chưa thật sự tin cậy lẫn nhau, bằng mặt không bằng lòng; một số ít đồng chí không nhất trí với nhau về những vấn đề cụ thể nhưng chưa giải quyết kịp thời và có kết luận thỏa đáng, dẫn đến thiếu thông cảm lẫn nhau, làm ảnh hưởng nhất định đến đoàn kết nội bộ và đến phong trào chung.

Công tác cán bộ chưa được đổi mới một cách cơ bản, còn thiếu mạnh dạn trong việc luân chuyển, thay thế, trẻ hóa cán bộ. Việc tạo nguồn cán bộ chưa được quan tâm đúng mức; công tác quy hoạch cán bộ mới chỉ thực hiện được ở các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Công tác đào tạo, đào tạo lại chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, chuyên môn của cán bộ, công chức, nhất là đối với những ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng. Chậm ban hành chính sách thu hút nhân tài, ưu đãi, khuyến khích cán bộ đem hết tài năng cống hiến cho sự nghiệp xây dựng quê hương. Chưa tranh thủ phát huy được tiềm năng to lớn của đội ngũ cán bộ các cơ quan trung ương, các cơ sở nghiên cứu khoa học trên địa bàn. Tư tưởng cục bộ địa phương còn nặng trong một bộ phận cán bộ đảng viên, ảnh hưởng không tốt đến công tác cán bộ, gây trở ngại cho việc luân chuyển, bố trí đúng cán bộ.

Phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của một số cáp ủy đảng chưa được đổi mới; tệ quan liêu, giấy tờ, hội họp còn nhiều; việc kiểm tra, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng vẫn là khâu yếu. Một số tổ chức chưa được xác định rõ chức năng, nhiệm vụ nên hoạt động kém hiệu quả.

Những yếu kém, khuyết điểm thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đoàn thể nêu trên có tác động không nhỏ của các nguyên nhân khách quan, trong đó có yếu tố khó lường như khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và tình hình thiên tai, bão lũ. Bên cạnh đó, những tác động mặt trái của cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ phức tạp hơn, kẻ thù và các phần tử xấu luôn ra sức tuyên truyền kích động và gây rối, tạo ra những hậu quả nhất định về mặt tư tưởng, tâm trạng xã hội.

Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan là chính. Trong quản lý điều hành kinh tế - xã hội có lúc chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến đầu tư và chỉ đạo phat triển sản xuất kinh doanh; chậm nghiên cứu tự đổi mới và đề nghị với Trung ương đổi mới, tháo gỡ một số cơ chế chính sách cho phù hợp với tình hình cụ thể của thành phố, từ đó chưa khuyến khích và thu hút mạnh mẽ đầu tư của nhân dân, của các địa phương bạn và từ nước ngoài. Trong một số trường hợp cụ thể, những thủ tục hành chính rườm rà hoặc cách cư xử cứng nhắc đã gây khó khăn cho việc thu hút đối tác đầu tư, thu hút các nguồn lực trong xã hội, nhất là các nguồn lực trong dân. Trong dự báo, tính toán xây dựng kế hoạch, do có phần nóng vội, chưa lường hết các yếu tố bất trắc khách quan đã đề ra một số chỉ tiêu phát triển quá cao, không đủ khả năng thực hiện.

Trong những nguyên nhân chủ quan có vấn đề cán bộ. Cơ cấu cán bộ nhìn chung chưa đồng bộ ở các cấp, các lĩnh vực. Trình độ lý luận lẫn năng lực thực tiễn của cán bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc, một bộ phận thiếu nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm, đùn đẩy ngại va chạm, không dám chịu trách nhiệm cá nhân, trong khi đó, việc đánh giá vẫn còn tình trạng bình quân, thiếu sự khuyến khích người giỏi, nhiệt tình say mê công việc. Những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân, nói không đi đôi với làm, vun vén cá nhân của một bộ phận cán bộ công chức, nhất là cán bộ có chức, có quyền chưa được phát hiện kịp thời và xử lý đúng mức. Cơ chế phối hợp trong hoạt động của bộ máy đảng, chính quyền, các đoàn thể chưa chặt chẽ và đồng bộ, có ảnh hưởng nhất định đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU NHIỆM KỲ XVIII

I- Nhận định về thành phố Đà Nẵng trong nhiệm kỳ:

1- Sự phát triển của thành phố trong tương lai không tách rời sự phát triển chung của miền Trung và cả nước, trong đó có cả cơ hội lẫn thách thức đều lớn và đan xen nhau. Bốn nguy cơ mà Hội nghị toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu ra vẫn tiếp tục tồn tại và diễn biến phức tạp, trong đó đáng chú ý là tình trạng thấp kém của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh phát triển vượt bậc của kinh tế thế giới; bên cạnh đó là tệ quan liêu, tham nhũng và sự thoái hóa về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ đảng viên làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và hiệu lực của chính quyền.

Trong thập kỷ tới, đất nước ta có khả năng duy trì được môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển. Bước sang thế kỷ mới, khoa học công nghệ và kinh tế tri thức chắc chắn sẽ có những bước phát triển hết sức mạnh mẽ, nhanh chóng, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhiều mặt của đất nước và thành phố chúng ta. Quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu sẽ ngày càng sâu rộng. Đó là những cơ hội lớn để chúng ta phát huy nguồn nội lực của dân tộc kết hợp với vận dụng sức mạnh cả thời đại phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt đối với nước ta.

Khu vực miền Trung trong những năm đến cũng có những cơ hội thuận lợi riêng mà chúng ta phải ra sức nắm bắt: Đó là sự quan tâm giúp đỡ và hỗ trợ ngày càng lớn của Đảng và Nhà nước về đầu tư và cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế - xã hội khu vực; một số dự án lớn đang được nghiên cứu triển khai hoặc đang được tiến hành như: khu công nghiệp Dung Quất, Khu kinh tế mở Chu Lai, hành lang Đông Tây bao gồm hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân, cầu Tuyên Sơn, cảng Tiên Sa, đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 1A mở rộng v.v...sẽ phát huy tác dụng tích cực trong thời gian đến.

Những thành tựu to lớn rất quan trọng sau 15 năm đổi mới đã tạo cơ sở vững chắc để đất nước tiếp tục bước vào thời kỳ phát triển mới. Kết quả của Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang được tiến hành đã tạo thêm sức mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng tình của nhân dân, là cơ sở để tiếp tục nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí và hành động, quyết tâm tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

2- Trong bối cảnh chung của miền Trung và cả nước, chúng ta cần nhận rõ những đặc điểm, lợi thế riêng của thành phố để khai thác, phát huy và những khó khăn bất lợi để chủ động vượt qua.

Đà Nẵng có vị trí địa lý thuận lợi, là thành phố biển, nằm ở trung độ cả nước, là đầu mối giao thông quan trọng, có hệ thống cảng biển, sân bay, đường sắt, đường bộ được nâng cấp ngày càng hoàn chỉnh, bưu chính viễn thông được hiện đại hóa, tiếp cận được với trình độ khu vực và thế giới...

Đà Nẵng có lợi thế về phát triển du lịch, có bãi biển đẹp, có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa, lại nằm giữa 3 di sản văn hóa thế giới là hướng mở ra đồng thời cũng là điểm đến của khách tham quan du lịch trong nước, trong khu vực và thế giới.

Một điều kiện thuận lợi của Đà Nẵng là có nhiều cơ quan trung ương đóng trên địa bàn, bao gồm các cơ quan nghiên cứu lý luận và các đơn vị hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh, giúp cho thành phố có điều kiện tiếp cận thông tin nhiều chiều, nhiều lĩnh vực. Đà Nẵng có hệ thống giáo dục - đào tạo tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ thống các trường đại học đa ngành, cả công lập và ngoài công lập.

Thành phố Đà Nẵng còn là vùng đất có truyền thống lịch sử - cách mạng trung dũng kiên cường, truyền thống hiếu học và truyền thống văn hóa.

Tuy nhiên, hạn chế, bất lợi cũng không nhỏ đang là những thách thức trong quá trình phát triển. Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt, thời tiết diễn biến thất thường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. So với các thành phố lớn trong cả nước, trình độ phát triển kinh tế, nhất là phát triển công nghiệp còn thấp, sức cạnh tranh yếu, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thị trường thành phố và khu vực còn nhỏ hẹp, manh mún, sức mua thấp. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển còn rất hạn chế.

Trong quá trình đi lên sản xuất lớn, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vẫn còn tồn tại tâm lý sản xuất nhỏ, cách nhìn hạn hẹp, có ảnh hưởng đến sự phát triển của thành phố.

Đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa có điều kiện giải quyết tốt. Cơ chế chính sách còn nhiều điểm chưa phù hợp. Trong thời gian tơi, vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa sẽ vừa là thời cơ, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với sự phát triển của thành phố.

II. Phương hướng chung và những chỉ tiêu chủ yếu phát triển thành phố:

1. Phương hướng chung:

Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quán triệt phương châm “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, tăng cường khối đoàn kết thống nhất, phát huy cao độ nội lực kết hợp khai thác mọi nguồn lực bên ngoài, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi để phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu về kinh tế, phát triển về văn hóa và khoa học - công nghệ, đảm bảo quốc phòng - an ninh, hệ thống chính trị vững mạnh, dân trí ngày càng được nâng cao, cảnh quan thiên nhiên, môi trường đô thị lành mạnh, sạch đẹp, vươn lên xứng đáng là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ của miền Trung và cả nước.

2- Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu

- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người năm 2005: 1000USD

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm: 19%-20%.

- Giá trị dịch vụ bình quân hàng năm: 12%-13%

- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm: 5%-6%

- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm: 20%

- Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước đạt 19-20% GDP, trong đó động viên thuế và phí vào ngân sách nhà nước bình quân: 17%-18% GDP

- Giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm: 0,35% - 0,05%

- Giảm số hộ nghèo còn: 1,35% (theo chuẩn mới).

III- Những định hướng lớn và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

1- Phát triển mạnh các ngành Công nghiệp Xây dựng, Thương mại, Du lịch, Dịch vụ, Nông nghiệp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng “ Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp”.

Tiếp tục thực hiện chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành công nghiệp; giảm tương đối tỷ trọng ngành nông nghiệp. Đến năm 2005, trong cơ cấu kinh tế của thành phố theo GDP, công nghiệp chiếm tỷ trọng 45,7%, dịch vụ chiếm tỷ trọng 49,3% và nông nghiệp chiếm tỷ trọng 5%.

Ưu tiên đầu tư một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, như chế biến hải sản, thực phẩm, dệt may, da giày, vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử, cao su, hóa chất, theo công nghệ hiện đại, sạch, không gây ô nhiễm môi trường, với các sản phẩm có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh trên thị trường phù hợp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu. Khẩn trương xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm, phấn đấu đưa ngành này trở thành một mũi nhọn kinh tế của thành phố.

Phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ có thế mạnh như vận tải đường sắt, đường bộ, cảng biển, hàng không, bưu chính viễn thông... xây dựng Đà Nẵng trở thành đầu mối trung chuyển, quá cảnh và giao lưu hàng hóa dịch vụ của miền Trung và khu vực tiến lên phát triển các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán, chuyển giao công nghệ, tư vấn đầu tư, tiếp thị...

Phát triển mạnh du lịch, phát huy vị trí thuận lợi là trung tâm vùng trọng điểm du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam, thực hiện đa dạng hóa các loại hình du lịch: du lịch sinh thái biển (biển, núi, làng quê...), du lịch văn hóa truyền thống, du lịch quốc tế và du lịch nội địa, đưa du lịch lên vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế xã hội của thành phố.

Nâng cao hiệu quả sản xuất thủy sản, nông, lâm gắn với từng bước đô thị hóa một cách hợp lý các vùng nông thôn ngoại thành, chú trọng tạo vành đai thực phẩm, rau xanh, các loại hoa, cây cảnh phục vụ nhu cầu nhân dân thành phố, khu công nghiệp và khác du lịch đồng thời tạo môi trường và cảnh quan nông thôn sạch, đẹp. Xây dựng ngành nông nghiệp sạch. Phát triển ngành chăn nuôi (bao gồm cả nuôi trồng thủy sản); lấy chăn nuôi hộ gia đình làm nòng cốt; coi trọng giống gia súc, gia cầm. Phát triển công nghiệp sơ chế nông sản và các ngành công nghiệp dịch vụ nông thôn. Bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn nước. Khôi phục phát triển rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, củng cố và bảo vệ các khu bảo tồn thiên nhiên Hải vân, Sơn Trà, Bà Nà - Suối Mơ, giữ gìn môi trường biển.

Hướng phát triển kinh tế biển của Đà Nẵng là ưu tiên phát triển các ngành khai thác, dịch vụ, trong đó lấy dịch vụ cảng làm khâu đột phá.

2- Tiếp tục xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, từng bước hiện đại.

Cùng với việc Trung ương đầu tư cho các công trình như: mở rộng Quốc lộ 1A, nâng cấp Quốc lộ 14B nối cảng Tiên Sa với đường Hồ Chí Minh , xây dựng hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân và đường tránh phía tây thành phố, xây dựng cầu Tuyên Sơn, mở rộng đường Ngô Quyền ra cảng, nâng cấp cảng biển nước sâu Tiên Sa, xây dựng mới ga hàng không quốc tế Đà Nẵng, hiện đại hóa trung tâm bưu chính viễn thông v.v...thành phố sẽ tập trung cải tạo mạng lưới giao thông nội thành, các trục giao thông quan trọng (trong đó có đường Liên Chiểu - Thuận Phước ven vịnh Đà Nẵng, đường nối cầu Sông Hàn ra Biển); xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông nông thôn, nhất là đường đến trung tâm các xã miền núi của huyện Hòa Vang; nâng cấp, xây dựng mới mạng lưới cung cấp điện, cung cấp nước sạch, xây mới hệ thống xử lý nước thải và vệ sinh môi trường. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp và chế xuất để thu hút các nhà đầu tư. Đảm bảo chất lượng, tính thẩm mỹ, văn minh, hiện đại, đồng bộ trong quy trình đầu tư xây dựng kết cầu hạ tầng.

3- Nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, ra sức phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác tối đa năng lực sản xuất trên địa bàn.

Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, ra sức khai thác, phát huy tiềm năng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất đồng thời chăm lo xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thành phố.

Coi trọng đổi mới quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước; thực hiện tốt chủ trương giải thể cho phá sản, giao bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, không có hướng phát triên. Đẩy mạnh cổ phần hóa một cách vững chắc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước ở địa phương huy động được nguồn lực, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới.

Tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả của kinh tế hợp tác và hợp tác xã với hình thức hoạt động đa dạng. Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại. Chú trọng phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn phù hợp với yêu cầu mới, chú ý khâu dịch vụ (vốn, kỹ thuật, lao động, tiêu thụ sản phẩm) cho kinh tế hộ gia đình và cho kinh tế trang trại.

Đối xử bình đẳng và tích cực hỗ trợ, hướng dẫn các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động theo đúng Luật doanh nghiệp và pháp luật của nhà nước; bảo hộ quyền sở hữu, lợi ích hợp pháp và khuyến khích khu vực kinh tế này huy động mọi nguồn lực vào tiến trình phát triển kinh tế thành phố.

4- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại.

Coi trọng việc xúc tiến các hoạt động đối ngoại, cả ngoại giao chính thức và đối ngoại nhân dân; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về thành phố; tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các địa phương trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên, trong nước và quốc tế, trước hết nhằm mở rộng quan hệ kinh tế, hợp tác đầu tư phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố, mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa, lựa chọn các yếu tố thuận lợi để từng bước tham gia đầu tư ra nước ngoài.

Nâng cao năng lực điều hành và quản lý nhà nước về hợp tác đầu tư; quản lý, sử dụng các nguồn vốn vay một cách hiệu quả và tiết kiệm. Đa dạng hóa và tăng cường sự phối hợp, hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh trên địa bàn thành phố trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.

Khẩn trương tổ chức cho các ngành, các doanh nghiệp nghiên cứu các hiệp định nước ta ký kết với các nước và các tổ chức kinh tế thế giới; chủ động xây dựng và triển khai thực hiện những phương án nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm quan trọng để chủ động vượt lên những thách thức gặp phải trong quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

5- Thực hiện đầy đủ và vận dụng linh hoạt các cơ chế chinh sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ sản xuất kinh doanh của Nhà nước đi đôi với nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách có tính khuyến khích của địa phương nhằm khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Các ngành, các cấp chính quyền xây dựng quy trình giải quyết từng vụ việc liên quan đến nhiệm vụ của ngành mình, cấp mình theo hướng xóa bỏ tệ quan liêu, giấy tờ, đảm bảo thực hiện đúng các quy định của Nhà nước theo con đường nhanh, gọn nhất, hạn chế tối đa việc gây phiền hà cho đối tượng được giải quyết.

Trên cơ sở chính sách chung của Nhà nước, tiếp tục nghiên cứu, ban hành và áp dụng một số cơ chế chính sách của thành phố theo hướng mở rộng sự thông thoáng, tạo môi trường thuận lợi và hấp dẫn cho đầu tư phát triển; chú trọng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các khu công nghiệp và khu chế xuất. Đề xuất Chính phủ ban hành các chính sách có tính chất đặc thù của miền Trung, trong đó có thành phố Đà Nẵng, như các chính sách về giá thuê đất, về thuế, về cho vay vốn, về lương thưởng, về hỗ trợ xuất khẩu khuyến khích đổi mới công nghệ v.v... nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trên địa bàn, thu hút đầu tư của các đối tác nước ngoài, của các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và của các địa phương trong nước cũng như những ngưòi gắn bó với Đà Nẵng đang sinh sống trên mọi miền Tổ quốc và nước ngoài để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội thành phố.

Nâng cao tính chủ động, năng động của cộng đồng cư dân Đà Nẵng trong đầu tư cho phát triển.

Phát huy tinh thần hợp tác, gắn bó mật thiết có tính truyền thống, đồng thời phát triển mối liên hệ kinh tế với các địa phương khu vực miền Trung và Tây Nguyên để cùng nhau phát triển.

Tranh thủ sự giúp đỡ và chủ động hợp tác nhằm hợp tác phát huy tốt năng lực mọi mặt của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trung ương trên địa bàn.

6- Tiếp tục phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội thành phố.

Giữ vững và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, củng cố chất lượng phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở; từng bước tiến hành phổ cập giáo dục bậc trung học (bao gồm trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề) ở những nơi có điều kiện thuận lợi; làm tốt việc hướng nghiệp - tư vấn tuyển sinh để phân luồng học sinh sau trung học cơ sở một cách hợp lý. Đẩy mạnh việc dạy - học tin học và ngoại ngữ trong các trường học.

Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, phấn đấu đào tạo đạt chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế, đảm bảo tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt từ 30-35% trên tổng số lao động có việc làm trước mắt vừa đáp ứng yêu cầu cao về nhân lực kỹ thuật trong những năm sắp tới, không chỉ để lao động trong nước mà còn tham gia chiến lược xuất khẩu lao động. Đồng thời, coi trọng việc sử dụng lao động qua đào tạo nghề, xem quản lý và phát huy nguồn lực qua đào tạo nghề như một loại hình công nghệ cao.

Bằng nhiều phương thức tạo nguồn khác nhau, làm tốt nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài, tích cực dào tạo chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực.Tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng để thu hút chất xám và lực lượng lao động có tay nghề cao. Tận dụng tiềm lực trí tuệ, phát huy tốt vai trò tư vấn, phản biện, giám định của cán bộ khoa học trên địa bàn thành phố, trước hết là các thành viên của Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng - Phân viện Đà Nẵng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nhằm nâng cao tính khoa học trong lãnh đạo quản lý, nhất là trong việc hoạch định chủ trương chính sách và thẩm định đầu tư công nghệ mới, phục vụ cho quá trình hội nhập và đón đầu xu thế phát triển của kinh tế tri thức.

Trong hoạt động khoa học, tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, đồng thời chuẩn bị cơ sở vật chất và điều kiện cho nghiên cứu khoa học cơ bản, có định hướng ứng dụng, khuyến khích các tập thể và cá nhân có các đề tài nghiên cứu đáp ứng các yêu cầu cụ thể của kinh tế - xã hội thành phố. Quản lý tốt chất lượng của các đề tại khoa học đang triển khai. Chú trọng khoa học xã hội và nhân văn, đưa ngành này có vị trí xứng đáng trong hoạt động nghiên cứu khoa học của thành phố phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Bước đầu xúc tiến việc quảng bá thị trường khoa học công nghệ trên địa bàn thành phố.

7- Giải quyết có hiệu quả hơn nữa các vấn đề xã hội bức xúc.

Gắn chặt nhiệm vụ đào tạo nhân lực với việc giải quyết việc làm và bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng cho người lao động, ưu tiên cho bộ đội phục viên, xuất ngũ, sinh viên tốt nghiệp đại học và các hộ tái định cư theo yêu cầu đô thị hóa, phấn đấu mỗi năm có thêm 18.000-20.000 lao động có việc làm. Chấn chỉnh và kiện toàn hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm với rà soát, thống kê, nắm chắc số lao động đã qua đào tạo nghề trên địa bàn đi đôi với triển khai kế hoạch đào tạo nhân lực mới, góp phần điều hòa nhân lực một cách hợp lý. Tăng hợp tác quốc tế để xuất khẩu lao động trên cơ sở kiện toàn tổ chức, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.

Phấn đấu nâng cao mức sống nhân dân các xã miền núi, vùng ven biển, của các gia đình chính sách, đảm bảo cho người có công với cách mạng có mức sống thấp nhất bằng mức sống trung bình của dân cư trên cùng địa bàn. Giải quyết có hiệu quả việc ổn định đời sống lâu dài đối với đồng bào vùng bị thiên tai, các hộ tái định cư theo yêu cầu đô thị hóa. Tích cực ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, trọng tâm là chống ba túy, mại dâm. Song song với xóa đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng.

Đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, nhất là sức khỏe bà mẹ và trẻ em, nâng cao thể chất của nhân dân trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại và y học cổ truyền. Đầu tư - nâng cấp các bệnh viện hiện có, xây dựng bệnh viện đa khoa mới, từng bước hình thành trung tâm chẩn đoán y khoa và trung tâm phẫu thuật hiện đại. Tăng cường kiểm soát việc tăng dân số cơ học một cách hợp lý, kết hợp với đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm tử 0,03% đến 0,05%.

8- Chú trọng tính nhân văn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho thành phần phát triển bền vững.

Trong 5 năm đến, dân số thành phố sẽ đạt khoảng 800 nghìn người. Với số dân không đông, thành phố phấn đấu nâng cao chất lượng sống của cộng đồng cư dân trên địa bàn nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong những thập niên đầu thế kỷ tới.

Tính nhân văn trong phát triển kinh tế thể hiện trước tiên ở việc giải phóng tối đa năng lực sản xuất tạo được không khí phấn khởi và sáng tạo trong lao động; đồng thời thể hiện qua việc chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái, kiên quyết không chay theo những lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ những tác hại lâu dài về môi trường. Khắc phục và giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm công nghiệp nói riêng, phấn đấu đến năm 2005, phần lớn các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn thành phố có hệ thống xử lý ô nhiễm đạt tiêu chuẩn môi trường theo quy định của nhà nước, di dời ra khỏi khu vực tập trung dân cư các cơ sở sản xuất có khả năng gây tác hại môi trường nghiêm trọng nhưng chưa xử lý ô nhiễm.

Ra sức xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố có môi trường văn hóa lành mạnh, có nếp sống văn minh đô thị phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phấn đấu thực hiện mục tiêu “thành phố 5 không”: không có hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang ăn xin, không có người nghiện ma túy, không có giết người cướp của. Đảm bảo tính nhân văn trong công tác quy hoạch tổng thể thành phố và trong các dự án kiến trúc đô thị. Xây dựng con người Đà Nẵng theo những phẩm chất có tính đặc thù truyền thống địa phương và những đức tính tiêu biểu của con người Việt Nam nói chung. Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản văn hóa trên địa bàn thành phố. Từng bước quy hoạch - đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa, thể dục thể thao trọng điểm của thành phố, góp phần giải quyết nhu cầu giải trí của mọi tầng lớp dân cư, nhất là thanh thiếu niên và người cao tuổi. Chú trọng cải thiện đời sống văn hóa của nhân dân, nâng cao chất lượng hoạt động ngành văn hóa, đảm bảo cho văn hóa thành nguồn lực nội sinh quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là đông lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố trước mắt và lâu dài. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật thành phố, phấn đấu có được những tác phẩm có giá trị về chiến tranh cách mạng và về công cuộc đổi mới đất nước. Nâng cao chất lượng hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình trong tình hình mới, đảm bảo đúng định hướng của Đảng đồng thời tiếp cận với xu thế truyền thông hiện đại.

Thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực hoạt động xã hội, tiếp tục triển khai kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đảm bảo cho các thế hệ công dân Đà Nẵng tương lai được gia đình và cộng đồng quan tâm từ tuổi ấu thơ; đồng thời nâng cao chất lượng phòng ngừa và điều trị các bệnh lão khoa nhằm tích cực chăm lo sức khỏe đối với người cao tuổi.

IV - Tăng cường tiềm lực quốc phòng - anh ninh, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành nội chính.

Tiếp tục quán triệt quan điểm của Đảng ta về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, gắn chặt phát triển kinh tế xã hội với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ liên hoàn vững chắc. Xây dựng củng cố nền quốc phòng tòan dân gắn với nền an ninh nhân dân, từng bước đầu tư xây dựng thế trận, xây dựng công trình phòng thủ. Coi trọng giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân, xây dựng phường xã vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị, quốc phòng - an ninh. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở, xây dựng thế trận lòng dân, chú ý các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc và đồng bào có đạo. Chỉ đạo chặt chẽ công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ hàn năm. Chăm lo công tác đảng, công tác chính trị, đảm bảo công tác hậu cần kỹ thuật, tăng cường chát lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đảm bảo chất lượng, chiếm tỷ lệ 2%. Công tác động viên quân đội thực hiện đúng pháp lệnh, đăng ký quản lý chặt chẽ ở tùng cấp; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Xây dựng lực lượng biên phòng thành phố vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh vùng biển, thàm gia phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng thực lực chính trị trên địa bàn biên phòng, tạo nền tảng để xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh.

Tiếp tục thực hiện nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chinh trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, giữ vững ổn định chính trị phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật. Đấu tranh có hiệu quả với những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Thực hiện tốt chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại, tạo sự chuyển biến rõ về trật tự an toàn xã hội.

Tập trung chỉ đạo củng cố các cơ quan bảo vệ pháp luật trong sạch vững mạnh, có quan điểm chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Tăng cường công tác thanh tra, điều tra, kiểm sát, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý các vụ tham nhũng, buôn lậu và những vi phạm pháp luật khác, đi đôi với tạo môi trường lành mạnh. Thông thoáng cho phát triển kinh tế - xã hội.

V- Phát huy vài trò làm chủ tập thể của nhân dân, đẩy mạnh hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng; ra sức xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn.

Phát huy kết quả đã đạt được, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở tất cả các loại hình cơ sở; gắn việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các hội, đoàn thể. Trên cơ sở đó làm chuyển biến cơ bản phương thức điều hành và lề lối làm việc của các cấp chính quyền, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình ra quyết định và thực hiện quyết định, sâu sát và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân, lãnh đạo việc chấp hành mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, dân tộc ít người; động viên mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo thêm động lực mới thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương. Cán bộ, đảng viên phải tích cực tham gia sinh hoạt đoàn thể; thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân; lắng nghe nguyện vọng của nhân dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Các cơ quan đảng, nhà nước các cấp phải thực hiện tốt cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng đảng, chính quyền, góp ý phê bình cán bộ, đảng viên.

Mặt trận và hội, đoàn thể các cấp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng xã hội hóa, tổ chức nhiều hình thức đa dạng để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng, phát huy khí thế phong trào thi đua yêu nước của quần chúng trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc; lồng ghép chương trình hoạt động của các cấp hội, đoàn thể với chương trình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Phát huy và nâng cao kết quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Tập trung kiện toàn tổ chức, nhất là tổ chức ở cơ sở và xây dựng thực lực chính trị vững mạnh. Các cấp Mặt trận và đoàn thể phải hướng mạnh về cơ sở, khắc phục có hiệu quả tình trạng quan liêu, hành chính hóa trong hoạt động của mình để làm tốt chức năng cầu nối và tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, trước hết là cơ quan Thường trực; đề cao trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân, đảm bảo chất lượng các kỳ họp Hội đồng. Kiện toàn bộ máy các cơ quan nhà nước thật tinh gọn, điều hành tập trung, thống nhất và có hiệu quả. Củng cố các cơ quan chuyên môn để làm tốt chức năng tham mưu và đủ sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề quản lý nhà nước trên địa bàn. Giải quyết tốt việc khiếu nại, tố cáo của công dân. Tạo chuyển biến mới về cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính và các dịch vụ công; tăng cường trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước; ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ.

VI- Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ.

Công cuộc đổi mới tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố những năm đến đòi hỏi phải phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Đảng và trong xã hội, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy tính năng động, chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, của mọi thành phần kinh tế để cùng với nhà nước chung sức, chung lòng giải quyết khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế của thành phố một cách bền vững.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, đảng bộ phải nỗ lực cao hơn nhằm tạo chuyển biến sâu sắc trong cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của đảng bộ, khắc phục cho được những yếu kém, khuyết điểm trong thời gian qua. Phải phát huy bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực khác trong Đảng và trong xã hội. Các cấp ủy đảng phải chú trọng mở rộng dân chủ, đấu tranh chống các biểu hiện mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt đảng, tăng cường kỷ luật đảng, chấp hành pháp luật nhà nước. Đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự vững vàng về chính trị, có bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức, trí tuệ và năng lực đảm đương nhiệm vụ, có khả năng ứng phó với những thách thức của tình hình. Từng cấp, từng ngành phải tăng cường củng cố đoàn kết thống nhất trong nội bộ, phát huy sức mạnh tổng hợp cả hệ thống chính trị, khắc phục cho được những biểu hiện cục bộ, cơ hội, bè phái, ngăn chặn tệ viết, nói và làm trái với nghị quyết của Đảng; làm lành mạnh hóa các quan hệ nội bộ, tạo sự tin cậy và hợp tác chặt chẽ với nhau vì mục đích xây dựng đảng bộ thành phố trong sạch vững mạnh.

Trong những năm đến, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải tập trung làm tốt những nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác chính trị tư tưởng hiện nay là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố hiểu rõ tình hình, thấu suốt quan điểm, đường lối của Đảng, đoàn kết gắn bó, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức sẵn sàng đón nhận thời cơ, vận hội mới để đưa công cuộc xây dựng thành phố phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và bền vững, theo kịp đà phát triển chung của đất nước. Công tác tư tưởng phải nâng cao nhận thức và sự thống nhất của cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ chức quán triệt nghiêm túc nghị quyết của Đảng gắn với cụ thể hóa thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Chú trọng giáo dục toàn diện, gắn giáo dục lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng với nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên. Thông qua hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên và các hình thức khác, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan tâm đầu tư và có kế hoạch cụ thể chỉ đạo công tác biên soạn lịch sử đảng bộ và lịch sử địa phương ở cấp thành phố và cấp cơ sở.

Các cấp ủy đảng phải chủ động nắm diễn biến tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân, thường xuyên cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng đúng đắn, tạo sự nhất trí về quan điểm, đường lối của đảng. Mặt khác phải kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng các cấp phải chủ động đấu tranh chống lại âm mưu phá hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch, cảnh giác đối với những tư tưởng sai trái, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, buông lỏng kỷ luật trong Đảng. Thực hiện tốt phương châm “xây” đi đôi với “chống”, lấy ‘xây” làm chính. Các tổ chức Đảng từ thành phố đến cơ sở phải đề cao kỷ luật phát ngôn, nói và làm theo nghị quyết của Đảng, ngăn chặn kịp thời những dư luận xã hội không lành mạnh làm tổn hại đến sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

- Đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức. Tiếp tục củng cố, kiện toàn các ban của Đảng, các đảng ủy trực thuộc và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị thật sự tinh, gọn, bảo đảm chức năng nhiệm vụ rõ ràng, không trùng lắp, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Phát huy tốt vai trò chủ động của từng cơ quan và của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ.

Thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng và chỉnh đốn tổ chức cơ sở đảng, chấn chỉnh các cơ sở yếu kém, giữ vững nền nếp sinh hoạt định kỳ, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi ủy, chi bộ, đưa việc tự phê bình, phê bình trở thành nhiệm vụ thường xuyên của các chi bộ đảng. Cấp ủy cấp trên phải bám sát cơ sở, tập trung củng cố các cơ sở trọng điểm ở phường, xã, doanh nghiệp, trường học... Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng, chống mọi sự vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, bè phái. Phát huy dân chủ phải đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường kỷ luật và pháp luật nhà nước. Từng cấp, từng ngành và từng cán bộ, đảng viên phải đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện gây mất đoàn kết nội bộ, cục bộ, bè phái, chấp hành kỷ luật không nghiêm, nói và làm không theo nghị quyết của Đảng.

Các tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên tuyên truyền, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới bảo đảm tiêu chuẩn, đồng thời xem xét đưa ra khỏi đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, không còn đủ tiêu chuẩn. Làm tốt việc tạo nguồn để tăng cường phát triển đảng viên mới ở các đơn vị, địa phương chưa có hoặc còn ít đảng viên. Chú ý phát triển đảng viên mới trong công nhân lao động, giáo viên, cán bộ khoa học... Thực hiện việc phân loại, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm phải đúng thực chất, không hình thức và chạy theo thành tích. Phấn đấu hàng năm có trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh.

- Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chi bộ phải làm tốt công tác giáo dục và quản lý đảng viên, phân công nhiệm vụ và kiểm tra đảng viên thực hiện nhiệm vụ được giao. Cấp ủy phải có kế hoạch cụ thể nhằm tạo điều kiện cho đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống và trình độ năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế. Đảng viên đang công tác ở các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy và nhân dân nơi cư trú, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên về chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và về đạo đức, lối sống.

- Tạo chuyển biến mới trong công tác cán bộ. Vị thế của Đà Nẵng hiện nay cũng như quy mô và yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố những năm đến đòi hỏi phải đầu tư công sức nhiều hơn nữa cho công tác cán bộ nhằm xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được trẻ hóa, vững vàng về chính trị, có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, tâm huyết với công việc. Muốn vậy phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bao gồm cả quy hoạch đào tạo, sử dụng, đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ.

Trước mắt, cần tổ chức rà soát, đánh giá, bố trí lại đội ngũ cán bộ sao cho phù hợp với năng lực cán bộ và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Thực hiện việc bổ nhiệm cán bộ có thời hạn và luân chuyển cán bộ theo quy hoạch khi xét thấy lợi ích của công việc đòi hỏi, không nhất thiết phải đến tuổi nghỉ hưu hoặc có khuyết đỉêm, sai phạm mới thay đổi. Từng bước đưa việc luân chuyển cán bộ vào nền nếp, có chính sách sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng đối với những cán bộ không còn giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do việc luân chuyển cán bộ. Kiên quyết khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, khép kín trong việc bố trí cán bộ. Đổi mới việc đánh giá, sử dụng cán bộ, lấy hiệu quả công tác làm thước đo chủ yếu, chú trọng đồng thời cả phẩm chất, đạo đức và năng lực của cán bộ. Đảm bảo dân chủ, công khai và thực hiện đúng nguyên tắc tập thể trong công tác cán bộ. Thay thế những cán bộ không có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao và kịp thời đề bạt những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực vào cương vị lãnh đạo. Từng bước thực hiện việc trẻ hóa đội ngũ cán bộ đi đôi với quy hoạch tạo nguồn cán bộ cho lâu dài, chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ xuất thân từ công nhân lao động, cán bộ khoa học, các chuyên gia về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hóa, đối ngoại…Có chính sách khuyến khích cán bộ tự học để nâng cao trình độ; thực hiện việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo quy hoạch. Tranh thủ phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ các cơ quan trung ương trên địa bàn. Có chính sách thu hút cán bộ giỏi, phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng người tài, thông qua thực tiễn và phong trào cách mạng mà tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ.

Coi trọng và chấp hành nghiêm các quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị 39-CT/TW của Bộ Chính trị trong tình hình mới.

Thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra của cấp ủy, chú trọng kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do cấp ủy cùng cấp giao cho Ủy ban Kiểm tra các cấp; chú ý củng cố kiện toàn về tổ chức và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra các cấp.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, cải tiến quy trình ra quyết định, coi trọng việc tham khảo, tiếp thu ý kiến các chuyên gia, cán bộ lão thành cách mạng và khai thác thông tin từ nhiều nguồn. Chú ý nâng cao trình độ tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết của cấp ủy và tổ chức dảng, kiên quyết khắc phục tình trạng chấp hành nghị quyết không nghiêm, nói không đi đôi với làm, làm không đến nới đến chốn, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, thưởng phạt không nghiêm minh. Bổ sung hoàn chỉnh quy chế làm việc của các ban cán sự đảng, đảng đoàn với chi ủy, đảng ủy và thủ trưởng cơ quan. Xây dựng mối quan hệ công tác chặt chẽ thường xuyên của thường trực cấp ủy với thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban mặt trận và đoàn thể các cấp. Chú trọng việc nâng cao chất lượng hội nghị, cắt giảm những hội nghị không cần thiết, dành nhiều thì giờ đi cơ sở chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chủ trương, nghị quyết của cấp ủy.

*

* *

Năm năm của nhiệm kỳ Đại hội XVIII sẽ là thời gian thử thách ý chí, trí tuệ và sức lực của con người Đà Nẵng với những thách thức lớn lao cùng với những cơ hội phải chủ động và kịp thời nắm bắt. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tin tưởng chắc chắn rằng, với tinh thần đồng tâm nhất trí, với ý chí cách mạng kiên cường, toàn đảng bộ, toàn quân và toàn dân thành phố nhất định vượt qua mọi khó khăn thách thức, quyết tâm xây dựng Đà Nẵng thành một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ của miền Trung và cả nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc trong thế kỷ mới.

BCH ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

;
.
.
.
.
.