(Do Đồng chí TRƯƠNG QUANG ĐƯỢC, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy trình bày)
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVII tiến hành vào tháng 4-1996 đã định ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ 1996-2000. Đến đầu năm 1997, thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa được tách ra để lập thành một đơn vị hành chính mới - thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Bộ Chính trị (khóa XVII) đã ra quyết định thành lập đảng bộ và chỉ định Ban Chấp hành Lâm thời Đảng bộ thành phố Đà Nẵng. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển lâu dài của thành phố chúng ta.
Tiếp nối truyền thống yêu nước chiến đấu chống ngoại xâm và lao động cần cù sáng tạo xây dựng quê hương đất Quảng, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, vận dụng tinh thần cơ bản của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của một thành phố trực thuộc Trung ương; dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thành ủy Lâm thời Đà Nẵng đã nhanh chóng đi vào hoạt động, lãnh đạo đảng bộ và nhân dân thành phố đạt được những kết quả bước đầu có ý nghĩa, tạo đà cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố từ nay đến năm 2000 và những năm tiếp theo.
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XVII là sự kế tục những nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang suốt 16 kỳ Đại hội kể từ khi thành lập Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây là Đại hội có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở ra một thời kỳ phát triển mới của thành phố Đà Nẵng với vị thế một thành phố trực thuộc Trung ương. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá tình hình hoạt động của đảng bộ thành phố từ khi thành lập đến nay, đặc biệt tập trung trí tuệ phân tích đúng thực trạng cũng như triển vọng và những vấn đề mới nẩy sinh. Trên cơ sở đó, đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện từ nay đến năm 2000, đồng thời bầu ra Ban Chấp hành mới nhằm lãnh đạo thành phố vươn lên xứng đáng với tiềm năng, vị trí của mình, góp phần cùng cả nước tiến vào thế kỷ XXI.
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG BỘ TỪ KHI THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC:
Kết quả và kinh nghiệm của năm đầu tiên thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI đã tạo thuận lợi cho thành phố tiếp tục phát triển. Trong điều kiện, hoàn cảnh mới, Thành ủy Lâm thời tập trung sức lãnh đạo nhanh chóng ổn định tổ chức và cán bộ, tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và đã đạt được những kết quả bước đầu, tạo cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ những năm sau.
Về kinh tế, chín tháng đầu năm 1997, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 15,8%, công nghiệp quốc doanh Trung ương tăng 36%, công nghiệp quốc doanh tăng 13,9%, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,8%, thu ngân sách tăng 9,3% so với cùng kỳ 1996. Nhiều ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng khá như điện, nước, thực phẩm, dệt, may... Về nông nghiệp, năng suất lúa đông xuân đạt 45,2 tạ/ha, nghề cá nhân dân tiếp tục phát triển, chín tháng đầu năm 1997 đã khai thác 17.000 tấn hải sản. Đã nâng cấp và đưa vào sử dụng một số công trình xây dựng cơ bản về cơ sở hạ tầng. Vận tải hành khách, hàng hóa giữ mức ổn định. Đảm bảo được điện cho sản xuất và sinh hoạt. Mạng lưới điện thoại, bưu chính viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa. Hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng, kinh tế đối ngoại từng bước được củng cố.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội đã được tập trung chỉ đạo. Đã quán triệt và vận dụng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) vào việc định ra các chủ trương, chính sách của thành phố. Hoạt động khoa học - công nghệ được thể chế hóa thành những chương trình lớn. Đã được chú trọng nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ và bảo vệ môi trường. Giáo dục - đào tạo được chỉ đạo đồng bộ từ kiện toàn hệ thống giáo dục các cấp đến nâng cao chất lượng dạy - học và ổn định bộ máy. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, báo chí - xuất bản tập trung tuyên truyền việc thực hiện các chủ trương lớn của Đảng bộ trong việc chia tách tỉnh, động viên cán bộ và nhân dân đoàn kết, tích cực tham gia phong trào thi đua xây dựng thành phố. Nhiều hoạt động xã hội như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bài trừ tệ nạn xã hội được các ngành, các địa phương tiếp tục quan tâm và đã có những chuyển biến nhất định. Việc thực hiện chế độ cho các đối tượng chính sách đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thương binh - liệt sĩ. Hoạt động dân số - kế hoạch hóa gia đình, chăm lo sức khỏe bà mẹ, bảo vệ - chăm sóc trẻ em, thể dục - thể thao tiếp tục phát triển. Các chương trình y tế quốc gia, phòng chống dịch bệnh được chú ý.
Về quốc phòng - an ninh và công tác nội chính: Tiếp tục động viên nhân dân tích cực tham gia củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng nhân dân; kết hợp xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ và khả năng phòng thủ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Triển khai kịp thời kế hoạch nhiệm vụ quốc phòng - an ninh năm 1997 xuống các quận, huyện và cơ sở. Làm tốt công tác tuyển gọi công dân nhập ngũ, quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Thường xuyên tiến hành phối hợp hoạt động giữa các lực lượng vũ trang với các đoàn thể chính trị xã hội, làm tốt công tác vận động quần chúng. Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật; đấu tranh có hiệu quả với những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn ngừa tội phạm và các tệ nạn xã hội. Phối hợp tốt giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc tiến hành điều tra, truy tố và đã xét xử nghiêm minh nhiều vụ việc tham nhũng, buôn lậu và những hành vi vi phạm pháp luật khác.
Công tác dân vận quần chúng của hệ thống chính trị có tiến bộ. Các cấp ủy đảng đã tập trung củng cố Mặt trận Tổ quốc và các hội, đoàn thể, phát huy vai trò của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên trong công tác quần chúng. Đảng bộ đã lành đạo việc tổ chức đại hội các đoàn thể, chỉ đạo tổng kết thực tiễn phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tổng kết Nghị quyết 24/NQQ-TW của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, triển khai Chỉ thị 62/CT-TW của Ban Bí thư (khóa VII). Mặt trận và đoàn thể các cấp có nhiều cố gắng ổn định bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp thêm được nhiều quần chúng vào tổ chức. Thông qua các ngày lễ lớn, các đoàn thể có nhiều hoạt động phong phú, phát động đoàn viên, hội viên đẩy mạnh các phong trào đền người đáp nghĩa, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo, xóa đói giảm nghèo, giúp nhau làm kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, tham gia công tác xã hội - nhân đạo, thực hiện kế hoạch hóa gia đình, thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới trên địa bàn dân cư. Những phong trào này đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của thành phố, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Công tác xây dựng Đảng được tập trung chỉ đạo, nhằm tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII).
Về chính trị tư tưởng, các cấp ủy và tổ chức Đảng đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. các Nghị quyết 2,3 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) và Nghị quyết về phương hướng, nhiệm kỳ năm 1997 của Thành ủy. Công tác tư tưởng đã được coi trọng từ đầu nhằm tạo sự nhất trí cao với chủ trương chia tách tỉnh, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn ban đầu, phát huy thuận lợi mới, chống những biểu hiện tiêu cực lệch lạc, chủ quan, tạo chuyển biến trên các mặt hoạt động của thành phố.
Công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ địa phương được tiếp tục chỉ đạo thực hiện và đạt hiệu quả thiết thực.
Về tổ chức bộ máy, sau khi tách tỉnh, Thành ủy Lâm thời đã chỉ đạo kiện toàn một bước hệ thống chính trị, bao gồm các cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cấp thành phố; thành lập các Quận mới; chỉ định Ban Chấp hành lâm thời các đảng bộ trực thuộc mới thành lập, tiếp nhận các đảng bộ được chuyển giao, bổ sung Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy Hòa Vang. Ban Thường vụ Thành ủy Lâm thời đã quyết định thành lập các ban cán sự Đảng, Đảng đoàn cấp thành phố, ban hành quy chế hoạt động của một số ban Đảng, quy định tạm thời về chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của ban cán sự Đảng và Đảng đoàn. Đến nay, các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng bộ trực thuộc Thành ủy đã tiến hành Đại hội bầu Ban Chấp hành chính thức.
Qua Đại hội, đội ngũ cán bộ các cấp được kiện toàn một bước, một số địa phương, đơn vị đã chú ý tăng cường cán bộ nữ, trẻ, cán bộ được đào tạo cơ bản vào các cương vị lãnh đạo. Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ được chú ý hơn. Công tác lãnh đạo bầu cử Quốc hội khóa X và bầu bổ sung đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp của thành phố được tiến hành chặt chẽ, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, cơ cấu và quy trình theo luật định.
Các cấp ủy Đảng đã quan tâm xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường công tác quản lý đảng viên. Đại bộ phận đảng viên ở cơ sở đã được phân công công tác, giao nhiệm vụ cụ thể theo khả năng của mỗi người. Sinh hoạt Đảng ủy, Chi ủy và Chi bộ có nội dung thiết thực hơn, chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, lấy nhiệm vụ kinh tế - xã hội hoặc công tác chuyên môn làm nội dung chủ yếu. Nhiều cấp ủy đã tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm công tác phát triển Đảng trong thời gian qua, hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đảng tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới. Chín tháng đầu năm, toàn thành phố đã kết nạp được 563 đảng viên mới.
Cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp đã chú trọng tăng cường công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức Đảng trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước, xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm. Theo chủ trương của Trung ương, các cấp ủy đã tiến hành kiểm tra tỉnh hình thực hiện Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng của các tổ chức Đảng trong lực lượng công an nhân dân thành phố.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” được các cấp ủy Đảng chú trọng góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên; kịp thời xác minh, xử lý những trường hợp đảng viên có lịch sử chính trị phức tạp.
Trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, các cấp ủy đã coi trọng việc xây dựng quy chế làm việc, cơ chế phối hợp hoạt động và kiên trì chỉ đạo thực hiện chương trình công tác đã vạch ra, Nhờ đó đã phát huy vai trò chủ động điều hành của các cơ quan Nhà nước, giải quyết tốt hơn mối quan hệ công tác giữa các cấp ủy với chính quyền, Mặt trận, và đoàn thể.
Đạt được những kết quả nêu trên là do:
- Thành tựu của 10 năm đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, mà trực tiếp là những thành tựu và bài học rút ra từ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã xác lập cơ sở ban đầu cho bước phát triển của thành phố.
- Sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương, các địa phương trong cả nước và các cơ quan, doanh nghiệp Trung ương trên địa bàn, cùng với tinh thần đoàn kết gắn bó, sự hợp tác chặt chẽ với tỉnh Quảng Nam anh em đã góp phần tạo động lực cho thành phố hoàn thành nhiệm vụ.
- Đặc biệt, sự nỗ lực và ý thức tự vươn lên khắc phục khó khăn của cán bộ, đảng viên, nhân dân thành phố, tinh thần sau khi chia tách tỉnh; cùng với những thành tựu đã đạt được và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có đã tạo thuận lợi ban đầu, góp phần thúc đẩy sự phát triển các mặt của thành phố.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM:
Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém trong bước đầu lãnh đạo các mặt hoạt động của đảng bộ. Thêm vào đó, những yêu cầu đổi mới với thành phố từ khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đã làm nẩy sinh một số vấn đề cần được tiếp tục giải quyết:
Kinh tế thành phố tăng trưởng chưa cao và chưa thật sự vững chắc, tiềm năng của thành phố chưa được khai thác có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp nhìn chung còn phân tán, phát triển không đều, chưa có ngành mũi nhọn, chưa tạo được khối lượng hàng hóa đáng kể; thiết bị, công nghệ lạc hậu; hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh còn thấp; ngân sách luôn căng thẳng, vốn đầu tư của Trung ương còn ít, đầu tư nước ngoài tăng chậm và bị động, vốn trong dân huy động còn hạn chế, chưa có tích lũy để tái tạo sản xuất mở rộng. Các ngành thương mại, du lịch, dịch vụ có quy mô nhỏ, chưa tạo được các luồng hàng hóa buôn bán lớn, thị trường còn hạn hẹp, chất lượng các dịch vụ chưa cao. Cơ sở hạ tầng tuy có được đầu tư nhưng còn bất cập so với yêu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài. Hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài chưa tương xứng với điều kiện và tiềm năng của thành phố. Nông nghiệp vẫn còn ở tình trạng thuần nông, giá trị hàng hóa nông sản thấp, việc chuyển dịch có cấu chưa tạo chuyển biến đáng kể. Quan hệ sản xuất mới từng bước được củng cố, những vẫn lúng túng về cơ chế vận hành nên chưa tạo động lực cho kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả.
Lĩnh vực văn hóa xã hội vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn, lao động chưa có việc làm còn nhiều. Kỷ cương trên lĩnh vực quản lý văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh đô thị, bảo vệ môi trường còn bị buông lỏng, Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân còn hạn chế, tình hình các bệnh xã hội trong một bộ phận dân cư còn đáng lo ngại. Tỷ lệ tăng dân số còn cao. Tệ nạn xã hội tuy có cố gắng khắc phục, song vẫn còn diễn biến phức tạp.
Về quốc phòng - an ninh và công tác nội chính, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được, vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị. Chất lượng và khả năng sẵn sàng chiến đấu có mặt còn hạn chế. Chưa thường xuyên giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân chống âm mưu “diễn biến hòa bình”; chưa giáo dục pháp luật rộng rãi trong nhân dân. Công tác bảo mật chưa được coi trọng đúng mức, có nơi có lúc còn chủ quan, mất cảnh giác. Hoạt động của các ngành nội chính có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn thiếu sót, đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa đáp ứng được yêu cầu thiết bị lạc hậu, ảnh hưởng đến chất lượng công tác. Tình hình trật tự an toàn xã hội vẫn là vấn đề đáng quan tâm. Nạn tham nhũng, buôn lậu, gian lận thương mại chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Hiệu lực quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp chưa cao, thể hiện trong quản lý kinh tế., quản lý xã hội, nhất là trên lĩnh vực quản lý đô thị. Việc cải cách hành chính tiến hành chậm và chưa được tập trung chỉ đạo một cách kiên quyết.
Công tác vận động quần chúng của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể còn hạn chế, chưa có cơ chế cụ thể nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Một số cấp ủy Đảng chưa coi trọng và chưa vận dụng đúng đắn các quan điểm về công tác quần chúng của Đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham những, sống xa hoa lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng, mệnh lệnh độc đoán... gây tác hại nhiều mặt, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chưa chuyển biến kịp so với yêu cầu. Đội ngũ cán bộ làm công tác quần chúng nói chung chưa đủ mạnh, chính sách đãi ngộ chưa đúng mức, điều kiện phương tiện làm việc còn thiếu thốn, một số chưa an tâm công tác.
Công tác xây dựng Đảng còn thiếu sót, khuyết điểm. Công tác tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân còn thiếu sắc bén, chưa chủ động kịp thời, phương thức chưa linh hoạt. Một số cấp ủy chưa chú ý đúng mức công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ các mặt cho cán bộ, đảng viên.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuy được quan tâm chỉ đạo, nhưng kết quả còn hạn chế. Vai trò hạt nhân lãnh đạo của một số tổ chức Đảng ở cơ sở chưa được phát huy mạnh mẽ. Công tác quản lý đảng viên về tư tưởng và sinh hoạt thực hiện chưa chặt chẽ. Việc phân tích chất lượng đảng viên ở một số nơi còn hình thức, chưa phản ảnh đúng thực trạng. Việc xem xét xử lý đảng viên vi phạm tư cách ở một số cơ sở Đảng chưa kịp thời. Công tác bồi dưỡng kết nạp đảng viên tuy có cố gắng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển Đảng trong tình hình hiện nay.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chưa theo quy hoạch và còn hạn chế về số lượng, chưa chú ý đúng mức đến chất lượng. Quan hệ công tác giữa Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn với Chi ủy, Đảng ủy, giữa thủ trưởng cơ quan với cấp ủy có nơi, có lúc còn lúng túng, nhất là trong một số doanh nghiệp và cơ quan hành chính sự nghiệp.
Thực trạng tình hình và những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó, có sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường cộng với đòi hỏi của quá trình đô thị hóa và yêu cầu mới của việc quản lý mang tính đặc thù sau khi chia tách; nhưng cái chính vẫn là do nguyên nhân chủ quan. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ các cấp chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, nhiệt tình công tác, sự năng động sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương giải pháp đã đề ra. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ các cấp bị hẫng hụt, chưa tạo được nguồn bổ sung, chưa có chế độ chính sách khuyến khích đãi ngộ đúng mức. Việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối vào từng lĩnh vực, từng địa bàn, việc xây dựng các chương trình, kế hoạch, đề án ở các cấp vẫn còn lúng túng, chấp vá, thiếu thống nhất, thiếu chủ động trong triển khai thực hiện. Chưa tạo được cơ chế thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chưa có biện pháp cụ thể nhằm huy động mọi nguồn lực để tạo sức mạnh phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG BỘ TỪ NAY ĐẾN NĂM 2000
Những năm còn lại của thế kỷ XX, Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng đang đứng trước nhiều thời cơ, triển vong, đồng thời cũng đang đối diện với không ít khó khăn, thách thức trong thế phát triển.
I. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:
Đà Nẵng là thành phố biển, có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh, nằm ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, có vai trò động lực đối với sự phát triển khu vực miền Trung - Tây nguyên. Đà Nẵng là đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không của cả nước và quốc tế, là nơi tập trung một số cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản có năng lực sản xuất - kinh doanh - dịch vụ tương đối lớn, có điều kiện phát triển ngành công nghiệp, kinh tế biển và thương mại, du lịch, dịch vụ. Sân bay quốc tế, cụm cảng biển tổng hợp, các khu công nghiệp, cùng với hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học đang tạo ra nhiều lợi thế so sánh để phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trong những năm gần đây, và những lợi thế sẵn có, sự kiện thành phố trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương đã tạo thêm thuận lợi cơ bản cho thành phố phát triển.
Đảng bộ và nhân dân Đà Nẵng có truyền thống yêu nước và cách mạng, đã được thử thách qua các thời kỳ, ngày càng có thêm kinh nghiệm và vững vàng hơn. Với thuận lợi và thời cơ mới, Đà Nẵng đang có nhiều cơ hội để vươn lên cùng các đô thị khác trong cả nước.
Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển mới, bên cạnh những nguy cơ mà Báo cáo Chính trị Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đã nêu ra, Đà Nẵng còn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn.
Kết cấu hạ tầng, nhất là mạng lưới giao thông, hệ thống cấp - thoát nước, mạng lưới điện v.v... đang xuống cấp hoặc chưa được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, làm giảm lợi thế về phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, lưu thông hàng hóa của thành phố. Trong khi đó, thành phố cũng còn nhiều khó khăn trong gọi vốn đầu tư nước ngoài, cạnh tranh thương mại, tìm kiếm thị trường nội địa cũng như quốc tế. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học ở một số ngành còn chậm, công nghệ mới và thiết bị hiện đại đưa vào sản xuất quá ít; thông tin về công nghệ còn hạn chế.
Tỷ lệ phát triển dân số còn cao, lực lượng lao động chưa có việc làm còn lớn; chất lượng nguồn lao động hiện có chưa cao, lao động kỹ thuật lành nghề còn thiếu, năng suất lao động còn thấp đang là những áp lực đối với nền kinh tế - xã hội.
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc như tình trạng xuống cấp của các cơ sở giáo dục, y tế, vấn đề ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội chưa được giải quyết tốt; phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp dân cư còn cao.
II. TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG:
1- Tư tưởng chỉ đạo:
- Phát triển Đà Nẵng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; chú trọng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với kỷ cương, tăng cường kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, đô thị hóa gắn với bảo đảm môi trường sinh thái, môi trường nhân văn.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, chọn các ngành sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu là chính: lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu chủ yếu trong việc chọn lựa cơ cấu kinh tế và lĩnh vực ưu tiên đầu tư; nâng cao năng suất lao động, đảm bảo có tích lũy nhanh, tăng mạnh, bền vững, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập.
- Huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội; tích cực khai thác và phát huy năng lực nội sinh, đi đôi với tranh thủ các nguồn lực bên ngoài; coi khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là động lực phát triển.
- Gắn phát triển kinh tế - xã hội với giữ vừng quốc phòng - an ninh, củng cố có hệ thống chính trị, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.
2- Phương hướng chung:
Quán triệt và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, khắc phục khó khăn, khai thác mọi tiềm năng và lợi thế, huy động mọi nguồn lực, lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm. xây dựng Đảng là then chốt, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh vững mạnh, phát huy sức mạnh tổng hợp và ý chí tự lực, tự cường của khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC LĨNH VỰC:
1- Nhiệm vụ chủ yếu:
- Tập trung mọi nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, trước mắt ưu tiên công tác quy hoạch; đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng và chỉnh trang đô thị; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, nông nghiệp (gồm cả lâm, ngư nghiệp); mở rộng lưu thông hàng hóa và dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng kinh tế đối ngoại; khai thác các tiềm năng và lợi thế về du lịch.
- Đầu tư phát triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao, y tế, chăm sóc - bảo vệ trẻ em, kế hoạch hóa gia đình trên cơ sở đẩy mạnh xã hội hóa, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Có kế hoạch chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội; giáo dục nếp sống văn hóa, văn minh đô thị, tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là chính sách đối với thương bình, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng.
- Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy chính quyền các cấp. Đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu; chống lãng phí và thực hành tiết kiệm; bài trừ tệ nạn xã hội.
- Củng cố Mặt trận, các đoàn thể và hội quần chúng đi đôi với tăng cường công tác vận động nhân dân, phát huy dân chủ, đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ quốc phòng - an ninh.
- Trên cơ sở tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII và các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị (khóa VIII), nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ, đảng bộ các cấp, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng cho được yêu cầu phát triển của thành phố trong tình hình mới.
2. Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội cơ bản:
Từ nay đến cuối năm 2000, cần tập trung lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu kinh tế - xã hội cơ bản sau:
- Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm: 15-16%, đến cuối năm 2000 đạt mức GDP bình quân đầu người khoảng 700 USD.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân đầu hàng năm 18-20%/năm.
- Giá trị thương mại, du lịch, dịch vụ tăng 16-17%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 27-28%.
- Giá trị sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5-6%/năm.
- Thu ngân sách địa phương tăng bình quân trên 12%/năm.
- Giảm tỷ suất sinh bình quân hàng năm 0,06%.
- Giảm hộ nghèo còn 2% vào cuối năm 2000.
3- Nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội:
a) Thúc đẩy phát triển kinh tế nhưng và bền vững:
- Nhằm mục đích phát triển kinh tế thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế của thành phố là: công nghiệp - thương mại. du lịch, dịch vụ - nông nghiệp (bao gồm cả lâm - ngư nghiệp), đến cuối năm 2000 đạt tỷ trọng tương ứng : 36,6% - 56,7% - 6,7%.
Về công nghiệp, phấn đấu tăng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp bình quân hàng năm từ 18 - 20%. Trong những năm tới, cơ cấu công tác cần được điều chỉnh hợp lý hơn theo hướng nhanh chóng hình thành các nhóm công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế về thị trường, về nguyên liệu tại chỗ và trong nước. Xác định công nghiệp là trọng tâm đột phá trong phát triển kinh tế đến năm 2000 và những năm tiếp theo, nâng tỷ trọng công nghiệp ngày càng cao trong nền kinh tế thành phố. Coi trọng đầu tư chiều sâu, ưu tiên phát triển quy mô vừa và nhỏ với công nghệ thích hợp, thu hút mạnh đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung hiện có, liên kết, liên doanh với các đơn vị trong nước và nước ngoài để phát triển công nghiệp, chú trọng các ngành công nghiệp đạt giá trị gia tăng lớn, hướng vào xuất khẩu, có tác động đến phát triển những ngành khác và thu hút nhiều lao động. Nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên thị trường.
Từ nay đến cuối năm 2000, tập trung phát triển các ngành công nghiệp bao gồm:
+ Công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản với các sản phẩm chủ yếu như: thủy sản đông lạnh, chế biến đồ hộp, chế biến rau quả, lương thực, chế biến gỗ, mây tre... nâng chất lượng chế biến thực phẩm và đảm bảo vệ sinh thực phẩm, tiến đến có sản phẩm thực phẩm chế biến hoàn chỉnh để xuất khẩu.
+ Công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu với những sản phẩm chủ yếu như: đồ dùng bằng nhựa, bia, nước giải khát, dệt may, da giày... tạo dần quá trình hợp lý hóa từ khâu dệt vải đến may sẵn quần áo, chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu thành phẩm.
+ Phát triển mạnh một số ngành công nghiệp cơ bản như: xi măng, sắt, thép, cao su, hóa chất, lắp ráp điện tử, vật liệu xây dựng cao cấp và cơ khí, chú trọng sản xuất phụ tùng lắp ráp, cơ khí đóng mới và sửa chữa tàu thuyền.
+ Từng bước thực hiện việc chuyển giao công nghệ, hình thành một số ngành, một số cơ sở công nghiệp có kỹ thuật cao như điện tử, tin học, các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của một đô thị phát triển
Phát triển thương mại - du lịch - dịch vụ, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng bình quân 26 - 17%/năm. Thương mại phát triển theo hướng đẩy mạnh khai thác nguồn hàng, mở rộng giao lưu thị trường, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu, chú trọng bán buôn và mở rộng lưới bán lẻ. Tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động thương mại, tập trung củng cố các doanh nghiệp thương mại quốc doanh, có phương án chuyển đổi mô hình hợp tác xã mua bán đang còn hoạt động theo Luật hợp tác xã, kết hợp tốt các hình thức kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân. Từ nay đến cuối năm 2000, từng bước xây dựng trung tâm triển lãm hội chợ quốc tế và một số trung tâm dịch vụ thuộc các lĩnh vực thương mại tài chính, ngân hàng, bảo hiểm v.v...
Phát triển mạnh dịch vụ cảng biển, vận tải quá cảnh, dịch vụ dầu khí, dịch vụ hàng không, bưu điện v.v... Đầu tư cơ sở hạ tầng, phương tiện thiết bị, tổ chức quản lý hợp lý và phối hợp khai thác có hiệu quả hệ thống các cảng biển, tăng cường lượng hàng hóa qua cảng. Nâng công suất cụm cảng tổng hợp Đà Nẵng, trong đó riêng Cảng Tiên Sa đạt 3 triệu tấn/năm vào cuối năm 2000. Đồng thời, kiên quyết đổi mới phương thức, cơ chế quản lý, phối hợp đồng bộ các cơ quan chức năng, hoàn thiện hơn nữa công tác điều hành xuất nhập khẩu. xuất nhập cảnh, đảm bảo thủ tục nhanh gọn, chi phí hợp lý, nâng sức cạnh tranh so với các cảng biển và sân bay khác.
Triển khai các dự án phát triển du lịch, tôn tạo xây dựng các điểm du lịch. đảm bảo kinh doanh thật sự có hiệu quả. Tạo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển dịch vụ du lịch và phát triển công - nông nghiệp.
Phấn đấu đưa giá trị sản lượng thủy sản - nông - lâm tăng 5 - 6%/năm. Tập trung phát triển nghề cá nhân dân, đóng mới tàu thuyền có công suất lớn để đánh bắt xa bờ, di chuyển ngư trường kịp thời, chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp. nâng cao năng lực khai thác, phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá. Đầu tư nâng cấp chất lượng hải sản đông lạnh, triển khai dự án nâng cao nuôi tôm hùm xuất khẩu.
Phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn, chú trọng giá trị nông sản hàng hóa (rau sạch, hoa, cây ăn quả); xây dựng vành đai thực phẩm ở ngoại thành. Phát triển chăn nuôi bò sữa, gà công nghiệp, bò lai sind, nạc hóa đàn heo. Có chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và bảo hộ nông sản.
Về lâm nghiệp, đẩy mạnh giao đất, giao rừng gắn với định canh, định cư và chương trình 327. Tập trung phát triển trồng rừng phòng hộ, kết hợp với bảo vệ rừng, trồng cây phân tán ở những nơi có điều kiện, nhất là vùng ven biển; trồng cây xanh ở các đường phố, các khu công nghiệp, khu du lịch, công viên để đảm bảo hệ sinh thái thành phố, xây dựng thành phố xanh - sạch - đẹp.
Mở rộng hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại: Làm tốt công tác đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại, tăng cường hợp tác với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Vận dụng những quy định của Chính phủ, đề ra chính sách ưu tiên thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào thành phố, chú trọng động viên các nguồn đầu tư vào các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến hải sản, đóng tàu, luyện cán thép, khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế. Gắn phát triển du lịch với bảo vệ cảnh quan đô thị, giữ gìn bản sắc dân tộc. Cải tiến quản lý Nhà nước về công tác đối ngoại chính phủ, đối ngoại nhân dân, tăng cường quản lý các dự án, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, làm tốt việc cấp giấy phép đầu tư nước ngoài theo phân cấp của Chính phủ.
Hợp tác xuất khẩu lao động theo định hướng của Nhà nước, áp dụng cơ chế xuất khẩu lao động thông qua hợp đồng trực tiếp giữa tổ chức làm dịch vụ cung ứng lao động của thành phố với các tổ chức doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động. Tăng cường mối quan hệ hợp tác kết nghĩa trong điều kiện cho phép với các thành phố nước ngoài, thực hiện hợp tác song phương và đa phương cùng có lợi, trước mắt duy trì quan hệ hợp tác với các thành phố đã có quan hệ với Đà Nẵng. Đổi mới công tác vận dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam nói riêng đang sống ở nước ngoài đóng góp xây dựng thành phố.
Phát triển kết cấu hạ tầng: Trong những năm trước mắt, đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, cần tập trung huy động các nguồn ngân sách nhà nước, nhân dân đóng góp, khai thác quỹ đất, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), viện trợ chính phủ (ODA), viện trợ phi chính phủ (NGO)... để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cải tạo, nâng cấp hệ thống thông tin liên lạc, các dịch vụ tài chính - ngân hàng... nhằm từng bước làm cho thành phố có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật tương đối hoàn chỉnh và phát triển.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động tài chính - ngân hàng nhằm phục vụ tích cực cho các mục tiêu kinh tế - xã hội. Phấn đấu thu ngân sách địa phương tăng bình quân trên 12%/năm, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách và có tích lũy từ ngân sách địa phương để đầu tư phát triển. Tăng cường quản lý và thanh tra tài chính, kiểm soát, kiểm toán việc thực hiện Luật ngân sách và chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê. Mở rộng hoạt động tín dụng, tăng cường quản lý lưu thông tiền tệ, ngoại tệ, góp phần bình ổn giá cả.
Tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phát triển các thành phần kinh tế. Sắp xếp, đổi mới hoạt động các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn. Kiên quyết xử lý những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài; xúc tiến cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước.
Củng cố và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa dạng trong các ngành và lĩnh vực kinh tế theo tinh thần của Chỉ thị 68/CT-TW, Luật Hợp tác xã và các nghị định đã được ban hành. Tiếp tục chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn thành phố.
Tăng cường quản lý Nhà nước, đảm bảo sự phát triển lành mạnh theo đúng pháp luật và có chính sách khuyến khích các công ty, các doanh nghiệp tư nhân và kinh tế hộ gia đình phát triển trong các lĩnh vực khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy sản, các ngành nghề gia công, giải quyết nhiều lao động.
Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước, bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài nhằm động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản; áp dụng nhiều hình thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các thành phần kinh tế.
Chỉ đạo phát triển đô thị gắn với giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn (chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn: điện, đường, trường, trạm, chợ, nâng cao trình độ dân trí, đời sống tinh thần v.v.... Chú trọng 4 xã miền núi, trước hết xây dựng kết cấu hạ tầng, ưu tiên phát triển các đường giao thông huyết mạch về miền núi; giải quyết tốt vấn đề định canh, định cư, phát triển giáo dục, y tế, giao thông nông thôn, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng này.
b- Phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chỉ đạo triển khai có hiệu quả chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, coi đây không những là thời cơ để phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ trên địa bàn mà còn là khâu đột phá mở đường cho sự phát triển kinh tế -xã hội toàn thành phố.
Để làm cho giáo dục - đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, trong chỉ đạo, điều hành phải có quan điểm đầu tư đúng và hợp lý từ nguồn ngân sách Nhà nước, đồng thời triển khai sâu rộng và thể chế hóa phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi nguồn lực thực hiện tốt hơn mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.
Tiếp tục đa dạng hóa loại hình đào tạo, quy hoạch lại hệ thống giáo dục và mạng lưới trường lớp ở các cấp học, ngành học và các địa bàn. Coi trọng chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt chất lượng đạo đức. Phấn đấu đến cuối năm 1998 phải xóa lớp học ca ba, không còn phòng học tạm, mượn; cuối năm 2000 tất cả phòng học trong thành phố đều được xây dựng kiên cố và bán kiên cố. Tăng tỷ trọng trường lớp bán công, khuyến khích mở trường dân lập, tư thục theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Phấn đấu đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở trên phạm vi toàn thành phố vào cuối năm 2000. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ và lao động kỹ thuật, công nhân lành nghề sao cho đến năm 2000 đưa tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên đạt 2,5% - 3%, lực lượng lao động có tay nghề tăng từ 19,8 % hiện nay lên 30% trên tổng số lao động có việc làm, nhằm đảo bảo nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước mắt là đáp ứng nhu cầu của các khu công nghiệp tập trung. Tiến hành chuẩn hóa về trình độ đào tạo một cách thực chất đối với đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên các cấp. Có chính sách ưu đãi riêng của thành phố dành cho giáo viên dạy hệ chuyên phổ thông trung học, giáo viên giỏi, giáo viên công tác ở các xã miền núi. Chấn chỉnh việc dạy thêm, học thêm tràn lan. Quản lý và sử dụng tốt các nguồn thu trong dân, phục vụ sự phát triển giáo dục đào tạo.
Đối với khoa học và công nghệ, một mặt cần dành sự đầu tư ngân sách thích đáng, mặt khác cần huy động mọi nguồn lực đồng thời quản lý chặt chẽ kinh phí đầu tư để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động, làm cho khoa học - công nghệ thực sự gắn với thực tiễn sản xuất và đời sống, từng bước tạo lập được thị trường tại chỗ, thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương những năm tới. Củng cố, kiện toàn bộ máy và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ và cán bộ khoa học - xã hội nhân văn từ thành phố đến cơ sở, chú trọng việc khuyến khích và đãi ngộ các tài năng khoa học trên địa bàn; đồng thời có chính sách thu hút chuyên gia giỏi ở trong nước và nước ngoài, hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu triển khai và chuyển giao công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý ngành gắn với việc thực hiện chương trình xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ và môi trường của thành phố. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố đối với Đảng bộ Phân viện Đà Nẵng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Đảng bộ Đại học Đà Nẵng, góp phần tạo điều kiện để các đơn vị này trở thành những trung tâm đào tạo - bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học - công nghệ của khi vực, góp phần vào việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đào tạo cán bộ có trình độ đại học trở lên cho các ngành kinh tế - kỹ thuật, các cơ quan lãnh đạo, quản lý của thành phố.
c- Nỗ lực giải quyết tốt hơn những vấn đề văn hóa - xã hội với tăng cường kinh tế.
Tăng cường hiệu lực quản lý các hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động này, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội. Tích cực khai thác các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống của dân tộc và của địa phương kết hợp với tiếp thu các tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng phong phú đa dạng của nhân dân thành phố.
Coi trọng xây dựng nếp sống văn hóa mới, văn minh đô thị trong các khu dân cư, đi đôi với đấu tranh chống mê tín dị đoan và các sản phẩm văn hóa độc hại, các hành vi thiếu văn hóa gây phương hại đến thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước nhằm bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa, lịch sử, cách mạng ở thành phố Đà Nẵng.
Chăm lo tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ phát huy năng lực sáng tạo nghệ thuật, chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng các tài năng văn hóa - văn nghệ của thành phố; thường xuyên bồi dưỡng trình độ chính trị, trình độ nghề nghiệp của đội ngũ biên tập, phóng viên; đồng thời tăng cường quản lý hoạt động xuất bản, báo chí.
Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo lồng ghép với các chương trình quốc gia khác như chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc, chương trình giải quyết việc làm... Phấn đấu không còn hộ đói, giảm hộ nghèo từ 8% hiện nay xuống còn 2% vào cuối năm 2000. Tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, ưu tiên đối với các gia đình chính sách, phấn đấu mỗi năm ít nhất có thêm 16.000 lao động có việc làm. Đảm bảo điều kiện lao động đi đôi với bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động, nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục phát động phong trào đền người đáp nghĩa, chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần các đối tượng chính sách, đặc biệt là phong trào phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình liệt sĩ neo đơn. Phấn đấu đảm bảo cho các đối tượng chính sách có mức sống thấp nhất bằng mức sống trung bình của dân cư trên cùng địa bàn.
Quan tâm chăm lo đến các đối tượng bất hạnh trong cộng đồng tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn thâm nhập vào học đường đang đầu độc hủy hoại thể chất và tâm hồn thế hệ trẻ. Tiếp tục mở rộng các hình thức hoạt động xã hội, thu hút mọi nguồn lực từ các tổ chức nhân đạo, từ thiện... vào hoạt động này.
Đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nhất là sức khỏe bà mẹ và trẻ em, nâng cao thể chất của nhân dân trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại và y học cổ truyền. Chủ động phòng ngừa và tích cực ngăn chạn các dịch bệnh, giảm đáng kể các trường hợp mắc và chết do sốt rét, phấn đấu đến năm 2000 thanh toán được bệnh phong, giảm hẳn tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, các bệnh do ký sinh trùng và suy dinh dưỡng, khống chế có hiệu quả sự lây nhiễm HIV/AIDS, thực hiện tốt các chương trình bảo vệ, chăm sóc trẻ em, nhất là đối với trẻ em khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn.
Tăng cường đầu tư nâng cấp các bệnh viện hiện có, từng bước hình thành trung tâm chẩn đoán y khoa và trung tâm phẫu thuật hiện đại. Chấn chỉnh hoạt động bảo hiểm y tế, chú trọng chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và người về hưu. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế đi đôi với quản lý chặt chẽ việc hành nghề y-dược tư nhân: khuyến khích thành lập các bệnh viện tư nhân, bệnh viện có đầu tư trực tiếp của nước ngoài, phát triển các hình thức chữa bệnh miễn phí dành cho người nghèo. Đa dạng hóa mô hình đào tạo cán bộ y tế, phấn đầu ngày càng có nhiều thầy thuốc giỏi, đồng thời hết sức quan tâm bồi dưỡng y đức cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế.
Có chính sách đầu tư thích đáng gắn với việc kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nhằm tạo chuyển biến mạnh hơn nữa về nhận thức và hành vi, đảm bảo giảm tỷ suất sinh bình quân hằng năm trên 0,06%.
Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao quần chúng, trước hết là trong thanh, thiếu niên, tạo chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang; kết hợp với việc chăm sóc phát triển các tài năng thể thao, phấn đấu đạt nhiều thành tích đỉnh cao.
4. Đảm bảo vững chắc quốc phòng - an ninh:
Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, phát huy truyền thống cách mạnh của quê hương, tập trung sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, xây dựng thành phố, quận, huyện thành khu vực phòng thủ vững chắc, củng cố xã, phường thật sự vững mạnh, góp phần bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải quốc gia.
Tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ, sự quản lý và điều hành của chính quyền đối với sự nghiệp quốc phòng và đối với các lực lượng vũ trang, làm tốt công tác giáo dục quốc phòng toàn dân. Thường xuyên chăm lo công tác Đảng, công tác chính trị, coi trọng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu cao trong bất cứ tình huống nào. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đủ số lượng với tỷ lệ 2 - 2,5% so với dân số, doanh thu bảo đảm chất lượng chính trị, nâng cao chất lượng hoạt động của các chi bộ, chi đoàn dân quân cơ động ở xã, phường. Đăng ký quản lý huấn luyện chặt chẽ lực lượng dự bị, phân nguồn động viên hợp lý. Bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu tuyển gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm với chất lượng ngày càng cao. Thực hiện tốt hơn chính sách hậu phương quân đội.
Xây dựng bộ đội biên phòng vững mạnh, thực sự là lực lượng chuyên trách nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới bờ biển và trên biển theo tinh thần Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh bộ đội biên phòng.
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Thành ủy về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh quốc gia. Xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân với phong trào bảo vệ anh ninh Tổ quốc. Trên cơ sở đó phát triển có chiều sâu các mặt công tác nghiệp vụ, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời có chủ trương đối sách cụ thể nhằm phối hợp các lực lượng, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và hoạt động của các loại tội phạm. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trên lĩnh vực an ninh, trật tự đô thị, đảm bảo an ninh chính trị tạo chuyển biến rõ rệt về trật tự an toàn xã hội góp phần giữ vững ổn định chính trị nhằm phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội của thành phố.
5. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền các cấp, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị-xã hội và hội quần chúng.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp theo hướng phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng các kỳ hợp Hội đồng, chất lượng hoạt động của Thường trực và các ban chuyên trách Hội đồng, cũng như của từng đại biểu Hội đồng; phối hợp chặt chẽ với Mặt trận và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Hội đồng nhân dân phải nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát đối với Ủy ban nhân dân, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân. Bảo đảm tốt hơn việc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo của công dân có điều kiện phát hiện, đề xuất, kiến nghị giúp cho hoạt động giám sát của mình có hiệu quả, thực hiện quyền dân chủ đại diện và quyền dân chủ trực tiếp của công dân.
- Triển khai cải cách hành chính đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Cải cách cơ bản các thủ tục hành chính, thực hiện chế độ “một cửa, một quyết định”, loại bỏ những khâu bất hợp lý và phiền hà nhằm ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động bộ máy chính quyền cấp quận, huyện và cấp xã, phường. Sắp xếp bộ máy hành chính thật tinh gọn, bảo đảm sự điều hành tập trung, thống nhất, có hiệu lực, đồng thời phát hiu tính chủ động, năng lực của địa phương, cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII). Xác lập và thực hiện nghiêm túc trật tự kỷ cương trong quản lý Nhà nước.
Đẩy mạnh hoạt động của các ngành nội chính, củng cố kiện toàn bộ máy tư pháp từ thành phố đến quận, huyện. Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử. Củng cố các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức hỗ trợ tư pháp, đi đôi với nâng cao chất lượng chính trị, đạo đức chí công vô tư, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, các cơ quan hoạt động tư pháp, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh.
- Chú trọng công tác phòng ngừa gắn với công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện các vụ tham những. Xử lý kịp thời và nghiêm minh các vi phạm, tội phạm ở mọi nơi, mọi cấp, mọi cương vị. Huy động và phối hợp chặt chẽ các lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, gắn với củng cố đoàn kết nội bộ, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu có hiệu quả. Triệt để chống lãng phí; thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng và sản xuất.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải tích cực chỉ đạo và gương mẫu chống tham những, đồng thời chịu trách nhiệm về tệ tham nhũng trong cơ quan, đơn vị của mình. Lựa chọn người có phẩm chất trong sạch, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn tham gia công tác chống tham nhũng. Xây dựng cơ chế để Mặt trận và các hội, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, nhân dân phát hiện và tích cực tham gia chống tham nhũng, bảo vệ những người thật sự công tâm và kiên quyết chống tham nhũng, nghiêm trị những tổ chức và cá nhân bao che, tiếp tay cho bọn tham nhũng, những hành vi lợi dụng chống tham nhũng để gây rối nội bộ. Kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm cho bộ máy thật sự trong sạch vững mạnh.
Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội, của hội quần chúng. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VI) về “đổi mới công tác quàn chúng của Đảng. tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Đảng lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên công tác dân vận, cán bộ, đảng viên đều phải làm tốt công tác dân vận, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, ức hiếp nhân dân. Các tổ chức đảng từ thành phố đến cơ sở phải lấy công tác vận động quần chúng làm nội dung hoạt động thường xuyên và coi đây là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng, chính quyền các cấp cần tôn trọng tính tự chủ về tổ chức và các hoạt động của Mặt trận và các hội, đoàn thể, hướng dẫn, phối hợp và tạo điều kiện cho các hội, đoàn thể hoạt động đúng hướng, đạt hiệu quả; lắng nghe và tôn trọng ý kiến đóng góp của quần húng, giải quyết kịp thời các yêu cầu chính đáng của dân; cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Quan tâm lãnh đạo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân và Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cả về số lượng và chất lượng, thực hiện tốt chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam tới năm 2000.
Mặt trận và các đoàn thể phải đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động tập hợp đông đảo quần chúng vào tổ chức; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phục bệnh hình thức, hành chính hóa đẩy mạnh các phong trào thi đưa hành động cách mạng, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội của địa phương. Vận động và giúp đỡ nhân dân thực hiện xóa đói, giảm nghèo; xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc, góp phần xây dựng xã, phường vững mạnh. Mặt trận và các đoàn thể cần củng cố tổ chức theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng và hiệu quả công tác, có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quần chúng đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước với các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, dân tộc ít người, người nước ngoài định cư ở Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, lấy mục tiêu dân giảu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh làm điểm tương đồng hướng về tương lai, chung sức xây dựng thành phố.
IV. VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG:
Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, lấy xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Trong tình hình hiện nay, cần hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng đi đôi với nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị, giũ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trước hết cần tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Đại hội VIII, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết Đại hội XVII và các Nghị quyết của Thành ủy, Chú trọng công tác giáo dục lý luận chính trị, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi đôi với đấu tranh chốn những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch lạc, những biểu hiện giao động về mục tiêu lý tưởng và con đường đi lên CNXH. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ Đảng, chống âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Chú trọng việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên. Các tổ chức đảng cần làm tốt công tác giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạng, nếp sống văn minh đô thị cho cán bộ, đảng viên. Giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, nói là làm theo nghị quyết của Đảng. Mỗi đảng viên phải thực sự là một tuyên truyền viên của Đảng, góp phần cùng tổ chức Đảng hướng dẫn và điều chỉnh dư luận xã hội, tạo ra sự nhất trí cao đối với từng chủ trương xây dựng thành phố. Phải kiên quyết chống tư tưởng bảo thù, cục bộ địa phương, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ, những biểu hiện tự do vô kỷ luật, cá nhân chủ nghĩa, quan liêu, lãng phí, xa rời nhân dân...
Làm tốt công tác giáo dục truyền thống cách mạng và những giá trị đạo đức, nhân văn, tinh thần năng động sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội ngày nay.
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng bộ trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ. Chú trọng chỉ đạo công tác biên soạn lịch sử Đảng bộ thành phố, đồng thời tiếp tục phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam hoàn thành việc biên soạn lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng thời kỳ 1930-1935 và bộ Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Cải tiến sinh hoạt chi bộ và cấp ủy, mở rộng dân chủ đi đôi với thực hiện nghiêm kỷ luật trong Đảng. Tiếp tục khảo sát đánh giá đúng thực trạng các tổ chức đảng để có kế hoạch phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu, thu hẹp diện tổ chức đảng yếu kém, mở rộng diện trong sạch vững mạnh, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có trên 65% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh. Tập trung củng cố cơ sở Đảng, phường, xã, chi bộ đường phố, chi bộ thôn, tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và cơ quan hành chính sự nghiệp, hình thành và củng cố cơ sở Đảng trong và các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Sắp xếp bộ máy tổ chức của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính. Kiện toàn các Ban của Đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, sắp xếp lại các đảng ủy khối, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, xây dựng quy chế hoạt động để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Coi trọng việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tăng cường công tác quản lý đảng viên. Phân tích chất lượng đảng viên phải đúng thực trạng để có biện pháp thiết thực bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức thực hiện, đảm bảo nêu cao tính giai cấp, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Làm tốt công tác tạo nguồn, bồi dưỡng phát triển đảng viên mới, chú trọng lực lượng trẻ, nữ, công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật, giáo viên, nhất là những địa bàn trọng điểm, nơi chưa có hoặc có ít đảng viên.
Quán triệt và tổ chức thực hiện tốt nghị quyết TW 3 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ. Trước hết, đổi mới và tăng cường công tác cán bộ theo hướng coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ và thực hiện chính sách đối với cán bộ để hình thành một đội ngũ cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hớ của thành phố. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý công tác cán bộ. Cán bộ, công chức phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực khác trong cán bộ đảng viên.
Khảo sát đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có, tiến hành quy hoạch tạo nguồn cán bộ đến năm 2000 và sau năm 2000 theo yêu cầu nâng cao về chất và đồng bộ về cơ cấu, chú trọng cả 4 loại cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII). Mỗi cấp uỷ và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt phải trực tiếp nắm và xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị, có kế hoạch từng bước bố trí, sắp xếp, phân công cán bộ theo yêu cầu của quy hoạch. Từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp xã, phường; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ xuất thân từ công nhân, cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý Nhà nước, quản lý đô thị, hoạt động kinh doanh, pháp luật, văn hóa, đối ngoại, cán bộ Đảng và đoàn thể, cán bộ ở vùng nông thôn miền núi.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng trên các mặt kiểm tra, hướng dẫn tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, đường lối chủ trương, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phát hiện quan liêu, tham nhũng, xử lý công minh, chính xác, kịp thời những đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng; đưa ra khỏi Đảng những người không còn đủ tư cách đảng biên. Công tác kiểm tra phải có chương trình, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm: phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để có kết luận rõ ràng, chủ trương xuất khẩu đúng đắn. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê, kiểm toán để theo dõi hoạt động của tổ chức đảng và cá nhân đảng viên. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong sạch, đủ năng lực.
Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời những phần tử chống đối và cơ hội về chính trị. Chú trọng giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị và các mối quan hệ chính trị phức tạp của cán bộ, đảng viên. Bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, cải tiến quan hệ và lề lối làm việc giữa cấp ủy Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của mỗi tổ chức.
Củng cố công tác tài chính kinh tế của Đảng theo hướng bảo đảm đúng pháp luật và hiệu quả. Từng bước nâng cao chất lượng các phương tiện và điều kiện làm việc của các cơ quan Đảng.
*
* *
Đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ thành phố là đại hội có ý nghĩa lịch sử đặc biệt, là đại hội mang tính kế thừa 16 nhiệm kỳ đại hộ của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng thời là đại hội đặt cột mốc đầu tiên trên chặng đường phát triển mới của thành phố. Phương hướng và nhiệm vụ mà đại hội đề ra là sự cụ thể hóa những đòi hỏi và mong muốn của nhân dân thành phố đối với Đảng bộ. Thực hiện thắng lợi phương hướng và nhiệm vụ này là thiết thực đưa thành phố chúng ta cùng cả nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Phía trước chúng ta là một thời kỳ mới với những triển vọng mới, những thời cơ thuận lợi mà chúng ta cần tận dụng và những thách thức lớn lao mà chúng ta phải kiên quyết vượt qua. Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ, toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân thành phố đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XVII, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn, vì mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
BAN CHẤP HÀNH LÂM THỜI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG