.

Tóm tắt Báo cáo Chính trị Đại hội lần thứ XX Đảng bộ thành phố Đà Nẵng

Đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tiếp tục  xây dựng thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, phát triển bền vững, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung

(Tóm tắt Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XIX tại Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng bộ thành phố do đồng chí Nguyễn Bá Thanh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy khóa XIX trình bày)

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIX

Năm năm qua, trong bối cảnh kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn, nhất là tình hình thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu diễn biến phức tạp; Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức. Tuy còn những hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục nhưng thành phố đã đạt được những thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIX đề ra.

Một là, kinh tế phát triển tương đối toàn diện, đạt tốc độ tăng trưởng khá; hiệu quả và sức cạnh tranh được nâng lên một bước.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 2.015 USD, gấp 2,2 lần so với năm 2005 và 1,6 lần mức bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, với tỷ trọng tương ứng trong GDP là: 50,5%; 46,5% và 3,0%. Cơ cấu lao động chuyển dịch nhanh, đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp ước còn 9,6%, công nghiệp 35,1%, dịch vụ 55,3%. Các thành phần kinh tế phát triển lành mạnh, cơ cấu thành phần kinh tế chuyển biến đáng kể. Vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế tiến bộ trên nhiều mặt.

Các ngành dịch vụ phát triển mạnh về quy mô, đa dạng về loại hình, đạt tốc độ tăng trưởng 17%/năm. Trong đó, du lịch, thương mại được tập trung đầu tư; dịch vụ tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính, viễn thông, dịch vụ chăm sóc sức khỏe phát triển nhanh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 21,1%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,1%/năm, tỷ trọng chế biến, chế tác trong sản phẩm được nâng lên đáng kể; một số ngành đạt tốc độ tăng trưởng cao; các khu công nghiệp tiếp tục được đầu tư phát triển theo hướng bền vững; các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường từng bước được xử lý theo quy hoạch.

Nông nghiệp phát triển theo hướng phục vụ cho đô thị, du lịch và công nghiệp. Bộ mặt nông thôn đổi thay rõ nét; hệ thống điện, đường, trường, trạm được đầu tư khá đồng bộ; đường giao thông nông thôn cơ bản được bê-tông hóa, thảm nhựa; 100% hộ gia đình có điện sinh hoạt, hơn 83% hộ gia đình được dùng nước sạch. Đà Nẵng là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước miễn hoàn toàn thủy lợi phí cho nông dân trước khi Chính phủ quyết định về vấn đề này. Đời sống nông dân được cải thiện đáng kể.

Kinh tế đối ngoại, liên kết trong nước và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng. Tính đến tháng 6 năm 2010, có 175 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép, với tổng vốn đầu tư đạt 2,7 tỷ USD, vốn thực hiện đạt hơn 1,3 tỷ USD. Hợp tác quốc tế, liên kết với Quảng Nam và các địa phương khác về phát triển mạng lưới giao thông liên tỉnh, du lịch, giáo dục, y tế được tăng cường.

Hai là, kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị được xây dựng khá nhanh và đồng bộ; công tác quản lý đô thị, tài nguyên và bảo vệ môi trường có nhiều chuyển biến tích cực

Nhiều công trình giao thông, điện lực, viễn thông, cấp thoát nước, xử lý chất thải có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp được đưa vào sử dụng. Nhiều khu đô thị mới với hạ tầng đồng bộ, hiện đại được hoàn thành, làm cho diện mạo thành phố đổi thay rõ nét, tạo nền tảng quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Công tác đền bù, giải tỏa tiếp tục được đẩy mạnh. Chủ trương “Khai thác quỹ đất tạo vốn để phát triển hạ tầng”, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị tiếp tục phát huy hiệu quả. Hầu hết các kiệt, hẻm đã được bê-tông hóa và có điện chiếu sáng. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch luôn được chú trọng, quy hoạch chi tiết 1 phần 500 được phủ kín tại hầu hết các khu vực trọng điểm. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển được nâng cấp, trong đó, Cảng Đà Nẵng từng bước vươn lên trở thành cảng biển lớn trong khu vực. Hệ thống chiếu sáng, vườn hoa, cây xanh được tăng cường; công tác quản lý đô thị và trật tự an toàn giao thông được đảm bảo. Đề án xây dựng “thành phố môi trường” được triển khai tích cực.

Ba là, nhiều cơ chế, chính sách linh hoạt được ban hành và tổ chức thực hiện, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển

Cải cách hành chính được đẩy mạnh, góp phần lập nên thành tích 3 năm liền từ 2005 đến 2007 đứng thứ nhì và 2 năm liên tiếp 2008, 2009 vươn lên dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Công tác quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước được thực hiện chặt chẽ, hiệu quả. Tổng thu ngân sách tăng bình quân 12,8%/năm. Tổng chi ngân sách tăng 9,5%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển tăng 18,3%/năm.
Bốn là, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ và các lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều tiến bộ

Giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ phát triển đáng kể, từng bước khẳng định vai trò là trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học của khu vực. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, phát thanh-truyền hình, thể dục-thể thao đa dạng và có nhiều tiến bộ. Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng đi vào chiều sâu.

Tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, nhiều chính sách an sinh xã hội đậm tính nhân văn được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt. Chương trình “thành phố 5 không” cơ bản hoàn thành. Chương trình “thành phố 3 có” đạt một số kết quả bước đầu. Các đối tượng chính sách được quan tâm chăm sóc chu đáo, các đối tượng xã hội được hỗ trợ ổn định đời sống. Mặc dù còn khó khăn, song ở Đà Nẵng, trẻ em nghèo bị bệnh tim bẩm sinh và phụ nữ nghèo bị bệnh ung thư đều được chữa trị miễn phí hoàn toàn; những người mãn hạn tù được tạo điều kiện vay vốn không lãi suất từ ngân sách thành phố để làm ăn sinh sống.

Chất lượng công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, đặc biệt là trẻ em được nâng lên đáng kể. Nhận thức và thực hiện chính sách, pháp luật về dân số, kế hoạch hóa gia đình có tiến bộ. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ có chuyển biến tốt. Công tác dân tộc được chú trọng; các tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động phù hợp với chính sách của Nhà nước.

Năm là, quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác nội chính và cải cách tư pháp đạt được những kết quả quan trọng

Các nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Công tác quốc phòng và quân sự địa phương thường xuyên được tăng cường; thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân luôn được bảo đảm. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm có chuyển biến tốt. Đã triển khai thực hiện thí điểm lực lượng dân quân thường trực tại một số phường. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng, đạt kết quả đáng kể. Công tác giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với vùng biển và huyện đảo Hoàng Sa được đẩy mạnh. Công tác nội chính và cải cách tư pháp được quán triệt và thực hiện tích cực. Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được nâng cao.

Sáu là, dân chủ được phát huy, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân luôn được củng cố

Pháp lệnh dân chủ và Quy chế dân chủ được quán triệt và thực hiện nghiêm túc ở các loại hình cơ sở; quyền làm chủ và dân chủ của nhân dân được tôn trọng; tính chủ động, sáng tạo của nhân dân được phát huy; nhờ đó, sức mạnh đồng thuận được tăng cường vững chắc. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân thành phố được nâng cao, theo hướng gần dân, sát cơ sở. Chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường được thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả bước đầu. Chính quyền các cấp không ngừng được củng cố, năng lực tổ chức thực hiện được nâng lên. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng như công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm thường xuyên được đẩy mạnh. Mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội tiếp tục củng cố tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đóng góp thiết thực vào việc tập hợp, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố đề ra.

Bảy là, công tác xây dựng Đảng đạt kết quả đáng kể, lãnh đạo thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được những kết quả bước đầu quan trọng

Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị với chất lượng, hiệu quả được nâng cao, góp phần quan trọng củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai thực hiện nghiêm túc, với nhiều mô hình hay, cách làm tốt; xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình ở các ngành, các cấp.

Tổ chức bộ máy các cơ quan trong hệ thống chính trị được tập trung sắp xếp, củng cố. Nhiều chủ trương, chính sách về tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên được chú trọng thường xuyên, đạt những kết quả quan trọng. Hằng năm có trên 75% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; trên 99% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ. Mỗi năm kết nạp trên 1.800 đảng viên mới, bảo đảm yêu cầu về chất lượng. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thường xuyên.

Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo với nhiều cách làm mới, có tính đột phá và đạt kết quả tích cực. Nổi bật là triển khai thực hiện có kết quả các đề án về phát triển, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao; đào tạo cán bộ dự nguồn đối với hai chức danh Bí thư, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường, xã; mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ, bổ nhiệm cán bộ vượt cấp, tổ chức thi tuyển để bổ nhiệm một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; thực hiện chủ trương thí điểm bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cùng cấp. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp được tăng cường. Công tác dân vận của hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp được đổi mới, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng bộ.

Nhìn tổng quát, 5 năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện, với 9/11 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt so với Đại hội XIX đề ra. Nổi bật là tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị tạo được dấu ấn rõ nét; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; quốc phòng-an ninh được củng cố và giữ vững; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường; nội bộ đoàn kết, nhân dân đồng thuận, góp phần tạo nên mối quan hệ đáng quý và đáng trân trọng ở Đà Nẵng là: “Đảng nói - dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động - dân theo; Chính quyền làm - dân ủng hộ”.

Đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ có đường lối đúng đắn và sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương; sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các bộ, ban, ngành, của Quân khu V và các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn; nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Thành ủy; sự quản lý, điều hành năng động, sáng tạo của chính quyền; sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng Nhân dân, sự phối hợp nhịp nhàng của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng bộ luôn nêu cao truyền thống đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, tăng cường sức mạnh đồng thuận trong xã hội, phát huy có hiệu quả thành tựu của nhiều nhiệm kỳ trước, tạo nên sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, từ đó đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XIX vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm với hai chỉ tiêu đề ra thực hiện chưa đạt. Kinh tế tuy tăng trưởng khá, nhưng quy mô còn nhỏ, tích lũy còn hạn chế; sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Chất lượng tăng trưởng chưa cao, một số ngành, lĩnh vực phát triển chưa thật bền vững. Vai trò động lực, sự hợp tác, liên kết khu vực và sức lan tỏa còn yếu. Khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế tập thể phát triển chưa mạnh. Kinh tế biển chưa được đầu tư, khai thác hợp lý. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt còn bất cập. Văn hóa, xã hội tồn tại nhiều vấn đề bức xúc chưa được giải quyết kịp thời. Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu. Nếp sống văn hóa, văn minh đô thị chưa chuyển biến mạnh.

Ngoài ra, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố phức tạp. Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm chưa cao. Một số mặt về công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố hệ thống chính trị chuyển biến chậm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng còn thiếu chủ động. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thật sự đi vào chiều sâu; chuyển biến “làm theo” chưa đều. Phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận chưa theo kịp yêu cầu. Phát triển đảng viên ở một số loại hình doanh nghiệp còn khó khăn. Công tác dân vận, hoạt động của Mặt trận, đoàn thể có lúc, có nơi còn chưa theo kịp với yêu cầu cuộc sống.

Những khuyết điểm nói trên trước hết thuộc về trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XIX, trực tiếp là của Ban Thường vụ Thành ủy. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XIX xin nghiêm túc tự phê bình và sẽ cầu thị, lắng nghe ý kiến đóng góp của Đại hội và nhân dân để nhanh chóng tìm giải pháp khắc phục trong nhiệm kỳ đến.
Từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ thành phố trong 5 năm qua, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:

Bài học thứ nhất là phải dựa vào dân, có trách nhiệm với dân; phát huy sức mạnh đồng thuận của nhân dân để thực hiện các chủ trương, chính sách của thành phố, tất cả vì lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Đó là bài học đầu tiên và muôn thuở, là bài học của mọi lúc và mọi nơi, là bài học lớn và sâu sắc nhất của Đảng bộ chúng ta trong suốt chặng đường vừa qua.

Bài học thứ hai là phải nêu cao tính đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để củng cố sự đồng thuận trong xã hội, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Bài học thứ ba là phải phát huy vai trò tập thể, thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị, tạo sự nhất trí cao với các chủ trương, chính sách đã đề ra; đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân, phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp.

Bài học thứ tư là phải xác định rõ và tập trung đầu tư giải quyết tốt những khâu trọng tâm, trọng điểm, nhất là về quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch. Kiên trì quan điểm lấy phát triển kết cấu hạ tầng đặc biệt là hạ tầng giao thông làm khâu đột phá, tạo nền tảng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cùng với quan tâm phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu các mặt văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một thành phố văn minh, hiện đại, giàu tính nhân văn.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ 5 NĂM 2010-2015

Trong những năm đến, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới và khu vực. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ không ngừng phát triển. Công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục được đẩy mạnh toàn diện. Đảng bộ, chính quyền, quân và dân thành phố đoàn kết, phấn khởi, có quyết tâm cao. Kinh tế, chính trị thành phố ổn định; tiềm lực, vị thế thành phố được nâng cao; nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý được đúc kết. Đó là những nguồn lực vô cùng quan trọng để thúc đẩy thành phố phát triển nhanh trong nhiệm kỳ mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình thế giới và trong nước cũng tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Tình hình an ninh khu vực còn nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn. Việc thực hiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực, cũng chứa đựng nhiều nhân tố tác động tiêu cực đến tư tưởng, văn hóa, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự biến đổi khí hậu toàn cầu và những diễn biến bất thường của thiên tai, dịch bệnh cũng gây ra những khó khăn nhất định.

Nhìn chung, tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả thời cơ lẫn thách thức đối với sự phát triển của thành phố trong 5 năm tới. Từ sự phân tích đó, có thể khẳng định rằng, thời gian đến, tuy còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng có cơ hội lớn để tiến lên. Đòi hỏi bức bách đối với chúng ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.

Mục tiêu, phương hướng tổng quát của 5 năm 2010-2015 và tầm nhìn đến năm 2020 là: tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước; là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung, là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả nước, tạo nền tảng để xây dựng thành phố trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.

Phấn đấu đến năm 2020, Đà Nẵng có quy mô dân số không vượt quá 2 triệu người, trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao, làm giàu bằng kinh tế tri thức; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống.

Năm hướng đột phá chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội của Đà Nẵng là:

Một là, phát triển các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ du lịch và thương mại;
Hai là, phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin;
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại;
Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh và thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn;
Năm là, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao;

Trên cơ sở đó, với quyết tâm cao, chúng ta đề ra những chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội để phấn đấu thực hiện trong 5 năm tới là: tốc độ tăng GDP bình quân 13,5 - 14,5%/năm, đến năm 2015 GDP gấp hơn 1,9 lần so với năm 2010. Trong đó, dịch vụ tăng 16 - 17%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 8,5 - 9,5%/năm, nông nghiệp tăng 1,5 - 2,5%/năm. Đến cuối năm 2015 GDP bình quân đầu người đạt 3.200 USD. Cơ cấu ngành trong GDP năm 2015 sẽ là: dịch vụ 54,2%; công nghiệp và xây dựng 43,8%; nông nghiệp 2,0% Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng 11,5 -12,5%/năm; tổng chi ngân sách địa phương tăng 10 - 11%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng 15-16%/năm. Giảm tỷ suất sinh 0,3%0/năm. Giải quyết việc làm bình quân cho 3,2-3,4 vạn lao động/năm. Không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố.

Từ tình hình thực tiễn trong thời gian qua cho thấy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được biểu hiện sinh động, rõ nét ở năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện. Vai trò lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện trong việc đề ra đường lối, chủ trương mà còn phải được khẳng định qua thực tiễn lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối đề ra. Với tinh thần đó, 5 năm tới thành phố tập trung tổ chức chỉ đạo triển khai quyết liệt những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây:

Một là, nâng cao quy mô, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại

Phát triển kinh tế bền vững, vừa mở rộng quy mô, vừa đảm bảo chất lượng, hiệu quả; vừa nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”. Đặc biệt, phải phấn đấu sớm trở thành một trong bốn trung tâm thương mại - dịch vụ lớn, vừa là trung tâm giao thương trong nước, vừa là cửa ngõ giao thương với nước ngoài như dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu. Ưu tiên phát triển và hiện đại hóa các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch, thương mại, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: viễn thông, vận tải, cảng biển, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Phấn đấu để khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng 17 - 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất sản phẩm vật chất; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16 - 17%/năm.

Tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm công nghiệp; tập trung phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin; chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ. Phấn đấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 12 - 13%/năm, trong đó công nghiệp tăng 11,5 - 12,5%/năm. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững. Xây dựng nông thôn mới theo hướng vừa văn minh, giàu đẹp vừa gìn giữ được giá trị truyền thống. Phấn đấu giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3 - 4%/năm. Phát triển kinh tế biển, nhất là đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo vệ tài nguyên biển và giữ vững chủ quyền vùng biển quốc gia.

Hai là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và quản lý đô thị, tạo bước đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ và hiện đại, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên

Triển khai thực hiện và quản lý chặt chẽ quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020. Tiếp tục mở rộng không gian đô thị theo tinh thần Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị. Rà soát, bổ sung quy hoạch định hướng phát triển không gian thành phố đến 2025, đặc biệt là quy hoạch phát triển giao thông vận tải. Chú trọng tổ chức không gian đô thị phù hợp, hài hòa với thiên nhiên và đảm bảo phát triển bền vững.

Đầu tư tập trung, hoàn thành đúng tiến độ những công trình kết cấu hạ tầng then chốt như: cầu Rồng, cầu Nguyễn Văn Trỗi mới, Nhà ga sân bay quốc tế, Cảng Tiên Sa (giai đoạn 2), Cảng Liên Chiểu (giai đoạn 1), Nhà ga xe lửa mới, đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, đường Hồ Chí Minh (đoạn Nam Đông - Túy Loan), tuyến Hành lang Kinh tế Đông-Tây từ Cảng Đà Nẵng đến cửa khẩu Nam Giang, các tỉnh lộ ĐT 601, ĐT 604 và các đường vành đai khác; các khu đô thị mới Tây Bắc, Đa Phước, Nam Cẩm Lệ; khu đô thị sinh thái Hòa Xuân gắn với khu liên hợp thể thao; quần thể du lịch sinh thái Sơn Trà, Bà Nà - Suối Mơ, Trung tâm hành chính thành phố, dự án khu phức hợp thương mại - dịch vụ cao tầng tại địa điểm sân vận động Chi Lăng hiện nay. 

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giao thông đô thị theo hướng hiện đại, kiên quyết không để xảy ra ùn tắc giao thông, giải quyết cơ bản vấn đề ngập úng cục bộ. Hoàn thành xây dựng Nhà máy Cấp nước Hòa Liên, phấn đấu 100% dân số nội thành và 95% dân số nông thôn được cấp nước sạch. Nâng cấp hoàn chỉnh hệ thống thu gom, xử lý chất thải; phấn đấu tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 100%. Ưu tiên phát triển giao thông công cộng, giảm dần phương tiện giao thông cá nhân trong nội thành; nghiên cứu, thiết kế xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, bãi đổ xe ngầm; đẩy nhanh hiện đại hóa hạ tầng viễn thông và ngầm hóa đường dây điện, điện thoại, cáp viễn thông, truyền hình tại khu vực trung tâm thành phố.
Phát triển vận tải hành khách công cộng, hệ thống trạm dừng nghỉ, bến xe, nhà ga, hệ thống điều khiển giao thông theo quy hoạch. Tạo bước chuyển đáng kể trong thực hiện Đề án xây dựng “thành phố môi trường”. Phấn đấu đến năm 2015, hầu hết cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch, 85% cơ sở hiện có đạt các tiêu chuẩn cơ bản về môi trường; các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đẩy mạnh việc trồng cây xanh, phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 50%.

Ba là, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và liên kết khu vực

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phấn đấu duy trì vị trí dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại. Thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; áp dụng các hình thức đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực; phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực cho đầu tư phát triển. Thu hút đầu tư có chọn lọc, khuyến khích đầu tư vào các ngành dịch vụ, công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết phát triển với các địa phương trong khu vực, trong nước và quốc tế. Đặc biệt là có chính sách hợp tác, hỗ trợ thiết thực đối với tỉnh Quảng Nam anh em và các tỉnh Nam Lào. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. Có chính sách hỗ trợ hợp lý đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại, hộ sản xuất kinh doanh. Phát triển đồng bộ các loại thị trường; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế.

Bốn là, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và xã hội gắn liền với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là chất lượng giáo dục toàn diện; rút ngắn khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa nội và ngoại thành. Xây dựng Trường chuyên Lê Quý Đôn trở thành trường trung học phổ thông chuyên chất lượng cao trọng điểm quốc gia. Đề nghị Trung ương đầu tư, sớm hoàn thành xây dựng Làng Đại học Đà Nẵng theo quy hoạch. Xúc tiến mạnh mẽ việc thành lập trường đại học công lập chuẩn quốc tế. Phấn đấu xây dựng Đại học Đà Nẵng xứng đáng là đại học trọng điểm vùng, cùng với Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III và các trường đại học, cao đẳng khác trên địa bàn đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm đào tạo quy mô lớn, chất lượng cao của khu vực. Phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học, công nghệ, làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.

Tạo sự chuyển biến rõ nét trong giữ gìn, đầu tư và phát triển văn hóa. Xây dựng các thiết chế văn hóa trọng điểm như hệ thống bảo tàng, rạp xiếc, thư viện tổng hợp, nhà hát lớn, trung tâm văn hóa; đầu tư xây dựng và sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Thúc đẩy sáng tạo văn học nghệ thuật với những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật xứng tầm. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan truyền thông.
Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch. Tập trung đầu tư xây dựng công viên văn hóa Ngũ Hành Sơn gắn với nâng tầm tổ chức Lễ hội Quán Thế Âm, triển khai cuộc thi điêu khắc đá quốc tế và nâng cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế hàng năm, từng bước xây dựng thương hiệu “thành phố sự kiện”. Hoàn thành dứt điểm các dự án du lịch ven biển, xúc tiến đầu tư khu phức hợp du lịch quốc tế Làng Vân. Hoàn thành xây dựng nhà thi đấu phục vụ Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VI, tiến hành xây dựng mới sân vận động Chi Lăng.

Tiếp tục đẩy mạnh các Chương trình “thành phố 5 không”, “thành phố 3 có” gắn với thực thi các chính sách đảm bảo an sinh xã hội hiệu quả, kịp thời. Thực hiện tốt công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc người có công với nước, chăm lo con em gia đình chính sách; các chương trình, dự án giảm nghèo. Đẩy mạnh chương trình xây dựng nhà ở xã hội, hoàn thành 10.000 căn hộ chung cư dành cho người có thu nhập thấp. Đầu tư, phát triển mạng lưới dạy nghề theo quy hoạch. Phấn đấu đến năm 2015 thành phố có khoảng 60 cơ sở dạy nghề có quy mô vừa và lớn, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt khoảng 55%. Tiếp tục phát triển sự nghiệp y tế. Hoàn thành và đưa vào sử dụng Bệnh viện Ung thư, xây dựng mới bệnh viện chuẩn quốc tế. Thực hiện tốt chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình; kế hoạch hành động quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ. Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Năm là, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh cải cách tư pháp

Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân vững chắc; chủ động ngăn ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình“, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Xây dựng lực lượng Quân sự, Công an, Biên phòng thành phố cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, với tỷ lệ gọi công dân nhập ngũ đạt 100% kế hoạch, chất lượng bảo đảm. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với biển đảo, trong đó có huyện đảo Hoàng Sa. Triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ về cải cách tư pháp. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp; chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Phải làm cho việc tuân thủ, chấp hành luật pháp trở thành một nét văn hóa trong đời sống xã hội của các tầng lớp nhân dân thành phố.

Sáu là, tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ ngang tầm nhiệm vụ, tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên các lĩnh vực

Tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng. Tổ chức tốt việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội; phòng, chống biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản cách mạng. Chú trọng đi vào chiều sâu trong thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện “học tập” và “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác. Phát huy và nhấn mạnh vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong thực hiện Cuộc vận động.

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tổ chức xây dựng Đảng. Kiện toàn tổ chức bộ máy, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Phấn đấu hàng năm có trên 75% tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém; trên 90% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao và mỗi năm phát triển trên 1.800 đảng viên mới.

Đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ, phẩm chất tốt, tận tụy với công việc, thực sự có tâm và có tài, có năng lực tổ chức thực hiện, có khả năng thích ứng cao, biết tập hợp, biết tổ chức quần chúng và biết trăn trở, lo toan cho cuộc sống của nhân dân. Có những giải pháp mạnh mẽ hơn trong quy hoạch, đào tạo cán bộ nhất là cán bộ trẻ và cán bộ nữ, hình thành đội ngũ cán bộ dự nguồn cho các nhiệm kỳ kế tiếp thật sự chuyên nghiệp, có đủ năng lực, phẩm chất, nhiệt huyết và sức khỏe để phục vụ lâu dài. Xây dựng và thực hiện cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, trọng dụng đối với những người có đức, có tài; mở rộng việc thực hiện chủ trương thi tuyển để bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý các cơ quan Nhà nước, nhất là cấp trưởng, trong đó có thí điểm thi tuyển lãnh đạo cấp sở.
Quan tâm hơn nữa đến chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành giỏi, đội ngũ doanh nhân năng động, tài ba trên các lĩnh vực. Thu hút, giữ chân, sử dụng hiệu quả người tài đi đôi với tạo dựng môi trường làm việc mà ở đó những người có nhân cách tốt được bảo vệ, tôn vinh, những người thực tài được phát huy, trọng dụng. Phải xây dựng một thế hệ cán bộ Đà Nẵng dám nghĩ, dám làm, biết làm và dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, không né tránh, biết dấn thân vì sự nghiệp chung của Đảng, của dân; có phong cách làm việc nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, và làm có hiệu quả.

Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại và xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm kỷ luật Đảng; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Triển khai thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Xây dựng và thực hiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng Đảng, giám sát cán bộ, đảng viên; nhân rộng những điển hình “Dân vận khéo”. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy các cấp. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước và toàn xã hội. 

Bảy là, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh gắn với nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện

Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố; thể chế hóa kịp thời các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy. Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp, phục vụ tốt nhất lợi ích của nhân dân. Từng bước hình thành bộ máy quản lý nhà nước theo hướng chính quyền đô thị. Triển khai chương trình tổng thể về cải cách hành chính đến năm 2020. Nâng cao chất lượng gắn liền với đề cao trách nhiệm cá nhân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cơ quan hành chính các cấp, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm.
Tám là, phát huy dân chủ và sức mạnh đồng thuận, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị- xã hội, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân

Thực hiện nghiêm túc các văn bản của Trung ương về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; về công tác dân tộc, tôn giáo; về xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Kiên trì phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật.

Cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải gương mẫu trong công tác vận động quần chúng, luôn “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Cấp ủy và người đứng đầu thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, kịp thời lắng nghe và phản hồi có trách nhiệm đối với những ý kiến của nhân dân. Mặt trận, đoàn thể các cấp tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động, thường xuyên hướng về cơ sở, đa dạng hóa hình thức tập hợp quần chúng; làm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố luôn có sự chung tay, góp sức của mỗi người, mỗi nhà, của mọi người, mọi nhà, tất cả vì thành phố thân yêu.

Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XIX tin tưởng chắc chắn rằng, phát huy truyền thống anh hùng của quê hương, toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân thành phố tiếp tục phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, với tinh thần: đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tiếp tục xây dựng thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, phát triển bền vững, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XX Đảng bộ thành phố và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Kính chúc quý vị đại biểu sức khoẻ. Chúc Đại hội thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!
;
.
.
.
.
.