Năm năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình thiên tai, thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp; khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu tác động nặng nề, nhưng Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng, tương đối toàn diện, đạt và vượt 9/11 chỉ tiêu chủ yếu do Đại hội XIX đề ra và Hội nghị giữa nhiệm kỳ điều chỉnh, tạo nên những chuyển biến tích cực và sâu sắc trên các lĩnh vực. Nổi bật là tình hình chính trị thành phố luôn ổn định, nội bộ đoàn kết, nhân dân đồng thuận, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được củng cố, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường.
Xác định rõ và tập trung đầu tư giải quyết tốt những khâu đột phá, then chốt, trọng điểm. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy, thành phố đã triển khai tốt công tác quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch kết cấu hạ tầng, không gian kiến trúc, môi trường đô thị; làm tốt công tác đền bù, giải tỏa, tái định cư; tập trung xây dựng những công trình có quy mô lớn, tạo ra nền tảng của một đô thị hiện đại, từng bước vươn lên xứng đáng là đô thị loại I cấp quốc gia và là trung tâm phát triển của miền Trung - Tây Nguyên. Mặt khác, đẩy mạnh cải cách hành chính, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp; quan tâm phát triển cả bề rộng và chiều sâu các mặt văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội; thực hiện tốt chương trình “5 không”, “3 có”, đặt nền tảng cho một thành phố văn minh, hiện đại, giàu tính nhân văn.
Đoàn kết, thống nhất là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng. Nhờ đoàn kết, thống nhất trong Đảng, mà hạt nhân là đoàn kết, thống nhất trong thường trực, thường vụ và ban chấp hành mà Đảng bộ đã đề ra và lãnh đạo thực hiện thành công nhiều chủ trương lớn, tạo nên những chuyển biến tích cực và sâu sắc trên mọi mặt của thành phố. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để tạo ra sự đồng thuận xã hội, tạo ra sức mạnh tổng hợp để vượt qua khó khăn, tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra.
Thành phố đã lựa chọn đúng và chỉ đạo thực hiện có kết quả những vấn đề lớn, mang tính đột phá; đặc biệt là đã triển khai tốt công tác quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch; đề ra được nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân; huy động được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài để đầu tư phát triển thành phố. Kinh tế thành phố phát triển toàn diện và đạt được tốc độ tăng trưởng khá; kết cấu hạ tầng đô thị được đầu tư phát triển đồng bộ, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn đã làm thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại.
Các chủ trương về khai thác quỹ đất, tạo vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” cùng với công tác đền bù, giải tỏa, tái định cư tuy có quy mô khá lớn, nhưng đã được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả, thể hiện sự năng động, sáng tạo của Đảng bộ và sự đồng thuận của cán bộ, nhân dân thành phố. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển; chương trình “5 không”, “3 có” đạt kết quả tích cực. Đặc biệt, trong bối cảnh ảnh hưởng của suy giảm kinh tế, thành phố đã triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội mang đậm tính nhân văn, tạo được sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân thành phố.
Tổng sản phẩm nội địa (GDP) ước tăng bình quân 11%/năm. GDP bình quân đầu người nâng lên rõ rệt, năm 2010 ước đạt 33,2 triệu đồng (2.015 USD), gấp 2,2 lần so với năm 2005 và bằng 1,6 lần mức bình quân chung cả nước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, phù hợp với Nghị Quyết Đại hội XIX và Nghị Quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP năm 2010 ước đạt 50,5%; công nghiệp - xây dựng: 46,5% và nông nghiệp: 3,0%. Cơ cấu lao động chuyển biến tích cực, đến năm 2010, tỷ lệ lao động nông nghiệp (thủy sản - nông – lâm) ước còn 9,6%, lao động công nghiệp: 35,1%, dịch vụ: 55,3%.
Các ngành dịch vụ phát triển mạnh về quy mô và đa dạng về loại hình, đạt tốc độ tăng trưởng 15,6%/năm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của kinh tế thành phố. Hệ thống kết cấu hạ tầng du lịch được đầu tư đồng bộ, hoàn thiện và đưa vào sử dụng các cơ sở du lịch lớn, góp phần nâng dần sức hấp dẫn, từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng. Hạ tầng thương mại được đầu tư đồng bộ, hiện đại với 24 trung tâm thương mại và siêu thị, 88 chợ các loại theo hướng văn minh, lịch sự, an toàn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 21,1%/năm.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 20%/năm. Các dịch vụ tài chính, tín dụng, ngân hàng, vận tải, tư vấn, bưu chính, viễn thông, y tế, đào tạo... phát triển theo hướng hiện đại, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, đời sống và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống ngân hàng được mở rộng với 54 chi nhánh, tổ chức tín dụng và 193 phòng giao dịch, chi nhánh giao dịch, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người dân tiếp cận các dịch vụ ngân hàng. Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông phát triển cao; đến cuối năm 2009, thành phố có 266 điểm phục vụ bưu chính công cộng; mật độ điện thoại cố định đạt 26 máy/100 dân; thuê bao Internet ước đạt 13,3 thuê bao/100 dân; 100% thôn có dịch vụ Internet. Hoạt động vận tải phát triển khá, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, với chất lượng phương tiện và dịch vụ ngày càng cao.
Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,1%/năm; sản phẩm phong phú, đa dạng; tỷ trọng chế biến, chế tác trong sản phẩm được nâng lên; các sản phẩm chủ lực được đầu tư phát triển; một số ngành đạt tốc độ tăng trưởng cao, như sản xuất vật liệu kim loại, phi kim loại, điện - điện tử, hóa chất... Thành phố đã rà soát, điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp; tích cực di dời, xử lý các cơ sở sản xuất cũ, từ chối các dự án mới có thể gây ô nhiễm môi trường; hạ tầng 6 khu công nghiệp được đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh, diện tích hơn 1.576 ha, thu hút trên 349 dự án, vốn đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp ước đạt 618 triệu USD và hơn 9,6 nghìn tỷ đồng.
Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng theo hướng tăng dần giá trị chế biến, giảm tỷ trọng trong cơ cấu GDP. Chăn nuôi từng bước được tổ chức lại theo phương thức tập trung, với quy mô hợp lý. Chú trọng công tác quản lý, bảo vệ rừng, kiểm tra, phòng chống phá rừng; tỷ lệ rừng che phủ đến cuối năm 2010 đạt 41%. Diện mạo nông thôn đổi thay rõ rệt; các hình thức dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được khuyến khích phát triển mạnh; hệ thống điện, đường, trường, trạm được đầu tư khá đồng bộ; cơ bản đã bê-tông hóa đường giao thông, 100% số hộ có điện sinh hoạt, hơn 83% số hộ được dùng nước sạch. Đời sống nông dân được cải thiện đáng kể; nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn phát huy hiệu quả.
|
Đường Nguyễn Tất Thành. |
Kinh tế biển phát triển, đóng góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của thành phố. Thủy sản được quan tâm đầu tư cả đánh bắt, nuôi trồng và chế biến. Trong giai đoạn 2006 - 2010, giá trị sản xuất ngành thủy sản tăng bình quân 8,2%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng 11% - 12%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển, như cảng biển, chế biến thủy sản, cảng cá, âu thuyền trú bão, các khu du lịch cao cấp, resort, các tuyến đường ven biển... được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới theo hướng hiện đại. Cảng Đà Nẵng tổ chức lại sản xuất theo hướng văn minh, hiện đại; đẩy mạnh khai thác nguồn hàng; tổ chức tốt dịch vụ cảng, dịch vụ hàng hải, vận tải biển, hậu cần logistics, nâng sản lượng xếp dỡ lên 5 triệu tấn/năm, từng bước vươn lên khẳng định vai trò cảng biển lớn trong khu vực.
Quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng đến nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới; chủ động thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của thành phố đối với khu vực và thế giới. Các hoạt động hữu nghị, giao lưu, đối ngoại nhân dân được đẩy mạnh. Đến giữa năm 2010, thành phố có 175 dự án FDI, tổng vốn đầu tư 2,6 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện ước đạt 1,3 tỷ USD (50% tổng vốn đầu tư). Chủ động, tích cực hợp tác, liên kết với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và một số địa phương khác về xây dựng mạng lưới giao thông liên vùng, du lịch, giáo dục, y tế.... để phát triển kinh tế - xã hội thành phố.
Phát triển khá nhanh và đồng bộ kết cấu hạ tầng; tăng cường quản lý đô thị, tạo chuyển biến tích cực trong công tác bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên. Chủ trương xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị tiếp tục được đầu tư phát triển đồng bộ, nhất là về giao thông, thông tin liên lạc, cấp điện, cấp thoát nước, thu gom và xử lý rác thải, nước thải... phát triển mạnh. Nhiều công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp; nhiều khu đô thị có hạ tầng đồng bộ, hiện đại, được khởi công xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải tạo môi trường, cải thiện chất lượng sống của nhân dân và tạo diện mạo mới cho thành phố. Trong 5 năm qua (2006 - 2010), thành phố đã bố trí tái định cư khoảng 18.340 lô; thực hiện công tác đền bù, giải tỏa, tái định cư cho nhân dân đúng chính sách, chế độ và tiến độ các công trình.
|
Đường Trần Hưng Đạo. |
Tăng cường công tác quản lý trật tự đô thị; ý thức chấp hành pháp luật về xây dựng từng bước được nâng cao; hạn chế tình trạng xây dựng trái phép tại các khu đô thị, khu dân cư. Các dịch vụ đô thị được cải thiện, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nhân dân. Hệ thống chiếu sáng, vườn hoa, cây xanh được tăng cường; quan tâm quản lý kiến trúc đô thị, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm về quy hoạch; trật tự, mỹ quan đường phố, vỉa hè, lòng đường, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường... có chuyển biến bước đầu.
Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên, nhất là quản lý đất đai, tài nguyên thiên nhiên, mặt nước được tăng cường. Thành phố đã tập trung giải quyết cơ bản các “điểm nóng” về môi trường; xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, xây dựng và cải thiện hệ thống xử lý nước thải ở các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất. Tích cực vận động và đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, các hoạt động cung ứng dịch vụ vệ sinh, môi trường; khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. Tập trung triển khai thực hiện Đề án xây dựng thành phố Đà Nẵng - thành phố môi trường nhằm hướng đến mục tiêu năm 2020 Đà Nẵng trở thành thành phố môi trường.
Thực hiện cơ chế, chính sách linh hoạt; tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nguồn lực cho phát triển. Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ban hành nhiều chính sách khuyến khích và ưu đãi đầu tư; triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư; 3 năm liên tiếp (2005, 2006, 2007) đứng nhì và 2 năm 2008, 2009 được công nhận dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Đến giữa năm 2010, thành phố có trên 12.813 doanh nghiệp dân doanh, tổng vốn đăng ký đạt 35 ngàn tỷ đồng, góp phần quan trọng tăng cường nguồn lực tài chính cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Các thành phần kinh tế phát triển lành mạnh; cơ cấu thành phần kinh tế chuyển biến tích cực, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp được chú trọng và đã cơ bản hoàn thành cả về mục tiêu và nội dung một cách toàn diện.
|
Đồng chí Trần Thọ trao Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng cho đảng viên quận Hải Châu nhân Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19-5-2010. Ảnh: Nguyễn Thành |
Phát biểu tại Hội nghị Tổng kết công tác chỉ đạo Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở và trên cơ sở do Thường trực Thành ủy tổ chức ngày 16-8-2010, đồng chí Trần Thọ, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy đánh giá khái quát công tác chỉ đạo Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở và trên cơ sở.
Trong đó, nhấn mạnh tính dân chủ trong bầu cử, ứng cử; sự chuẩn bị khá chu đáo của các Đảng bộ; sự hướng dẫn, chỉ đạo sát sao của Thường trực Thành ủy; ý thức trách nhiệm của đảng viên, đại biểu dự đại hội, vai trò điều hành của đoàn chủ tịch. Rút kinh nghiệm cho Đại hội Đảng bộ thành phố và những kỳ đại hội sau, đồng chí Trần Thọ lưu ý đến tình trạng đơn thư khiến nại, tố cáo nhiều lần, lặp đi lặp lại, giấu mặt và cho rằng, đây là biểu hiện không lành mạnh trong sinh hoạt Đảng cần nghiêm túc phát hiện, chấn chỉnh; trong đại hội, giữa nội dung và nhân sự thì nặng về nhân sự, thảo luận ít, tranh luận chưa nhiều…
Đồng chí Trần Thọ yêu cầu thời gian đến, các Đảng bộ cần tiếp thu ý kiến đại hội và chỉ đạo của cấp trên, hoàn chỉnh các văn bản của đại hội; tổ chức tuyên truyền, quán triệt trong Đảng bộ, nhân dân về kết quả và Nghị quyết của đại hội; phân công cấp ủy viên, xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy rõ ràng, rành mạch, đúng quy chế, đúng nguyên tắc; bố trí và thực hiện chính sách đối với cán bộ không tái cử; xây dựng chương trình thực hiện kế hoạch năm 2011, năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết của đại hội; lãnh đạo các hoạt động chuẩn bị Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XX.Công tác quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước thực hiện chặt chẽ, hiệu quả, góp phần thực hiện tốt các mục tiêu phát triển. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tăng bình quân 12,8%/năm, năm 2010 tăng gấp 1,5 lần so với năm 2006. Tổng chi ngân sách địa phương tăng 11,1%/năm, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 6,4%/năm, chi thường xuyên tăng 18,8%/năm. |
Giáo dục và đào tạo được đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trường, lớp các ngành học, bậc học không ngừng gia tăng; cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm. 100% phường, xã duy trì chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học cơ sở đúng độ tuổi; gần 95% phường, xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc trung học. Toàn thành phố có 25 (21%) trường mầm non, 66 (64,7%) trường tiểu học, 10 (19,2%) trường THCS và 03 (15%) trường THPT đạt chuẩn quốc gia.
Chất lượng giáo dục, đào tạo cải thiện đáng kể, thành tích các kỳ thi quốc gia và quốc tế nâng cao qua từng năm. Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng tăng. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo; củng cố các trung tâm giáo dục thường xuyên; khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động khuyến học, khuyến tài, giáo dục hướng nghiệp, đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được nâng cao, đến cuối năm 2009 ước đạt 50%.
Đại học Đà Nẵng, với 7 trường thành viên và phân hiệu trực thuộc, không ngừng lớn mạnh, từng bước khẳng định vai trò của một đại học vùng, một trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực. Đại học Đà Nẵng cùng với Học viện Chính trị - Hành chính khu vực 3 và 5 trường Đại học, 10 trường Cao đẳng, 48 cơ sở dạy nghề và các Viện nghiên cứu chuyên ngành, với đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao trên địa bàn, ngày càng khẳng định vai trò, vị trí Đà Nẵng là trung tâm giáo dục - đào tạo lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước.
|
Đường ĐT 605 xã Hòa Tiến, Hòa Vang. |
Hoạt động khoa học và công nghệ có chuyển biến tích cực và đúng hướng; nguồn lực về khoa học và công nghệ được đầu tư tăng cường; ưu tiên nghiên cứu triển khai các đề tài khoa học có khả năng ứng dụng thực tế cao. Một số lĩnh vực công nghệ cao, như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học... được chú trọng đầu tư và phát triển khá; việc triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ có tiến bộ. Công tác quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ, về tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, về an toàn và bức xạ có bước tiến đáng kể. Khoa học xã hội và nhân văn có nhiều đóng góp quan trọng vào việc xây dựng, hoàn thiện các chính sách phát triển thành phố.
Đời sống văn hóa của nhân dân được nâng lên. Thành phố chú trọng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; đầu tư xây dựng nhiều công trình văn hóa lớn; nghiên cứu, phục dựng một số lễ hội dân gian; phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Hệ thống các thiết chế văn hóa được củng cố và tăng cường, góp phần tạo nền tảng tinh thần, động lực mới cho phát triển. Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.
Hoạt động văn học - nghệ thuật có nhiều chuyển biến tích cực; báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và đóng góp tích cực vào việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân thành phố. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển trên diện rộng. Thể thao thành tích cao đạt nhiều thành tích mới; mùa giải 2008-2009, đội bóng đá SHB Đà Nẵng đoạt giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia.
|
239 hộ dân đã hiến đất mở rộng, nâng cấp đường Phạm Như Xương. |
Các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, gắn với từng bước thực hiện công bằng xã hội, tạo chuyển biến rõ nét trong việc giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc. Ngoài ngân sách do Trung ương cấp mỗi năm gần 200 tỷ đồng, thành phố đã trích ngân sách địa phương để hỗ trợ cải thiện nhà ở; tăng định mức hỗ trợ trong dịp lễ, Tết cho các đối tượng chính sách; cấp bù đủ 500.000 đồng/tháng để phụng dưỡng Mẹ VNAH; giải quyết kịp thời các chế độ trợ cấp đột xuất, thường xuyên cho các đối tượng xã hội. Nhiều chính sách an sinh xã hội mang đậm tính nhân văn được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ VNAH, xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, cùng với các hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện phát triển rộng khắp.
Chương trình “5 không” cơ bản hoàn thành, tiếp tục duy trì và phát huy kết quả. Mục tiêu không có hộ đói được thực hiện đồng thời với mục tiêu giảm nghèo, đến nay thành phố không còn hộ đói. Số hộ nghèo theo chuẩn Quốc gia cơ bản không còn (0%); nếu theo chuẩn (cũ) của thành phố thì số hộ nghèo ước còn 0,7%. Từ năm 2009, mục tiêu “không có hộ đói” và “không có người mù chữ” được điều chỉnh thành “không có hộ đặc biệt nghèo” và “không có học sinh bỏ học”. Hằng năm, giải quyết việc làm mới cho 3,2 vạn người; giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị còn dưới 5%.
Chương trình “3 có” đạt một số kết quả tích cực. Đã cơ bản hoàn thành “xóa nhà tạm” cho hộ nghèo có đất ở ổn định; đồng thời tích cực triển khai thực hiện Chương trình xây dựng 7.000 căn hộ chung cư cho người thu nhập thấp và xây dựng ký túc xá cho học sinh, sinh viên. Công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội thực hiện có hiệu quả. Mô hình xây dựng cụm dân cư, phường, xã không có tội phạm ma túy và tệ nạn xã hội được nhân rộng.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, đến cuối năm 2007 có 100% phường, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đến nay có 8,2 bác sĩ, 44,2 giường/10.000 dân; 100% xã, phường có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, y tá, điều dưỡng. Hệ thống y tế tư nhân, dịch vụ y tế chuyên sâu, chất lượng cao có bước phát triển. Quyền lợi của người khám và chữa bệnh BHYT được bảo đảm. Công tác tuyên truyền, thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình đạt nhiều kết quả quan trọng.
Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm triển khai thực hiện, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, hỗ trợ thiết thực. Công tác xây dựng gia đình; phòng, chống bạo lực gia đình; thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ có chuyển biến tích cực. Hoạt động tôn giáo, đời sống tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng phù hợp với chính sách tôn giáo của Nhà nước. Công tác dân tộc được đẩy mạnh, đã tổ chức thành công Đại hội các dân tộc thiểu số; chăm lo cải thiện đời sống các hộ gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt nghèo; sửa chữa, xây dựng cầu cống, đường giao thông đến các vùng miền núi...
Công tác quốc phòng và quân sự địa phương được tăng cường. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Hoàn thành xây dựng các công trình quốc phòng, các khu vực phòng thủ theo kế hoạch. 100% phường, xã, quận, huyện và thành phố tổ chức diễn tập cơ chế đạt kết quả tốt. Thực hiện có hiệu quả chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án đầu tư.
Công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng. Chỉ tiêu tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ hoàn thành 100% với chất lượng tốt. Thực hiện nghiêm túc công tác đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ và công tác hậu phương quân đội. Các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng cơ sở chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác phòng ngừa, đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm có chuyển biến tốt. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, khiếu kiện đông người, các vụ đình công, lãn công, gây rối; bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng điểm về an ninh quốc gia. Tăng cường lực lượng và biện pháp quản lý về trật tự xã hội, quản lý nhân khẩu chặt chẽ, đúng quy định. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng; kiềm chế và giảm thiểu tai nạn giao thông cả về số vụ tai nạn, số người chết và bị thương.
Tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với vùng biển và huyện đảo Hoàng Sa; ngăn chặn có hiệu quả các hành động xâm phạm chủ quyền vùng biển. Bộ đội Biên phòng thành phố phát huy tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách trong xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh; quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh trật tự khu vực biên giới biển thành phố. Chăm lo đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng lực lượng quân đội, công an, biên phòng thành phố vững mạnh, nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
|
Đường 30 tháng 4, phường Hòa Cường Bắc. Ảnh: NHÂN MÙI |
Công tác nội chính và cải cách tư pháp được tập trung thực hiện, đạt kết quả bước đầu quan trọng. Đã thực hiện tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp quận, huyện đi đôi với củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động tố tụng, nhất là tranh tụng tại tòa; xã hội hóa hoạt động công chứng. Chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân; củng cố, kiện toàn các cơ quan tư pháp và các tổ chức bổ trợ tư pháp. Quan tâm thực hiện công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu kiện của công dân.
Xây dựng hệ thống chính quyền vững mạnh; phát huy hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo, điều hành. Tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đơn vị thành phố. Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố có nhiều cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động. Vai trò của HĐND thành phố được phát huy. Việc triển khai thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường đạt kết quả tích cực. Thành phố đã tiến hành điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập quận Cẩm Lệ và 9 phường mới, đồng thời tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban Nhân dân thành phố hợp lý hơn, hiện còn 18 sở, ngành, 14 chi cục và tương đương. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan chính quyền từng bước nâng lên.
Cải cách hành chính giai đoạn 2005 - 2010 có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được kết quả rõ nét trên những lĩnh vực liên quan đến dân sinh và đơn giản hóa thủ tục hành chính, góp phần đưa thành phố trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2008, 2009. Việc thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” ở cả 3 cấp từ phường, xã đến sở, ngành đạt kết quả bước đầu, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tạo thuận lợi cho nhân dân trong các quan hệ dân sinh. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa X về phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm được tập trung chỉ đạo, gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng chống tham nhũng, lãng phí, gắn với quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp về minh bạch tài sản và thu nhập; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra...
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; có nhiều hình thức phù hợp trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, góp phần thiết thực phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, phát huy vai trò nòng cốt trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận xã hội trong các tầng lớp nhân dân; phát huy vai trò là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng và chính quyền các cấp.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng luôn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, coi trọng đổi mới nội dung, hình thức và phương thức hoạt động để nâng cao chất lượng, hiệu quả. Chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước gắn với đẩy mạnh công tác tuyên truyền định hướng dư luận xã hội, thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố, kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện chính trị quan trọng, góp phần tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Coi trọng nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và đấu tranh chống các quan điểm sai trái; âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, khoa giáo. Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ các cấp, lịch sử ngành gắn với đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống cách mạng và địa phương.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân thành phố. Cuộc vận động đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; có tác dụng tích cực đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị, địa phương.
Qua học tập và triển khai sâu rộng Cuộc vận động, đã tạo được những chuyển biến tích cực về tư tưởng, có nhiều mô hình hay, cách làm mới, sáng tạo về xây dựng Đảng, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí; xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở các cấp, các ngành, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác cán bộ được quan tâm chỉ đạo với nhiều cách làm mới, có tính đột phá và đạt được kết quả tích cực, như thí điểm thi tuyển để bổ nhiệm chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; triển khai các Đề án đào tạo cán bộ để chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ cao cho thành phố; mô hình tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ Cán bộ trẻ, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao bước đầu có hiệu quả. Nhiều chủ trương, giải pháp lớn về công tác cán bộ của Trung ương được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả; công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ thực hiện đúng các quy định, đặc biệt đã chú trọng bổ nhiệm cán bộ trẻ, cán bộ nữ và thực hiện nghiêm túc chủ trương thí điểm bí thư đảng ủy đồng thời là chủ tịch UBND cùng cấp.
Hằng năm cử trên 300 lượt cán bộ, đảng viên đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Việc đánh giá cán bộ được tiến hành công khai, khách quan; coi trọng hiệu quả công việc của cán bộ; đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Chủ trương thu hút nhân tài thực hiện đạt kết quả tích cực; đến nay, thành phố đã thu hút được 711 đối tượng, trong đó có 01 phó giáo sư, 05 tiến sĩ và 112 thạc sĩ về công tác lâu dài tại thành phố.
Chú trọng sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Củng cố các cơ quan tham mưu giúp việc của Thành ủy và các Đảng ủy trực thuộc; thành lập mới Đảng bộ các Khu Công nghiệp; ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở phường, xã và dưới phường, xã.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên được tiến hành thường xuyên, đạt được nhiều kết quả tích cực; các cơ sở yếu kém được tập trung củng cố, kiện toàn; chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng lên; vai trò của bí thư chi bộ và cấp ủy được coi trọng. Qua đánh giá, phân loại hằng năm, có gần 78% tổng số tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch, vững mạnh, trong đó có 18% đạt trong sạch, vững mạnh tiêu biểu; 99,5% tổng số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ, trong đó có 10% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác phát triển đảng viên được chú trọng, mỗi năm phát triển được 1.800 đảng viên mới, bảo đảm yêu cầu về chất lượng. Hơn 97,7% đảng viên đang công tác được giới thiệu tham gia sinh hoạt với cấp ủy nơi cư trú. Cơ sở dữ liệu đảng viên được cập nhật thường xuyên và khai thác, sử dụng có hiệu quả. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần bảo vệ Đảng, nâng cao chất lượng công tác cán bộ và phát triển đảng viên mới.
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp được tăng cường, nhất là kiểm tra việc chấp hành chủ trương, nghị quyết, Điều lệ Đảng; chính sách về quản lý tài chính, tài sản của cấp ủy Đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm. Tổ chức quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và các hướng dẫn thực hiện của UBKT Trung ương. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Trung ương và Thành ủy; kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm và tổ chức Đảng cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ kiểm tra; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên sai phạm, được dư luận đồng tình.
Công tác dân vận được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện và đạt nhiều kết quả cụ thể. Các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương về công tác dân vận được quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đã góp phần củng cố sự đồng thuận xã hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy có nhiều đổi mới theo hướng vừa nâng cao năng lực đề ra chủ trương, vừa tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện; chú trọng các khâu trọng tâm, trọng điểm và các giải pháp đột phá để thực hiện thắng lợi chủ trương đã đề ra. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đi đôi với phát huy trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Phong cách, lề lối làm việc được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, tăng cường các hình thức đối thoại với nhân dân, phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm cá nhân và vai trò người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, xử lý các công việc được giao.
Mục tiêu tổng quát đến năm 2015
và tầm nhìn đến năm 2020
Mục tiêu và phương hướng tổng quát trong 5 năm đến là: Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển kinh tế nhanh và bền vững; xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một đô thị lớn của cả nước; là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung với vai trò là trung tâm dịch vụ; là thành phố cảng biển; đầu mối giao thông quan trọng về trung chuyển vận tải trong nước và quốc tế; trung tâm bưu chính - viễn thông và tài chính - ngân hàng; một trong những trung tâm y tế, văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ; trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của miền Trung và cả nước, tạo nền tảng để xây dựng thành phố trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
Tầm nhìn đến năm 2020: Xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị hiện đại, phát triển bền vững, các ngành dịch vụ (du lịch, thương mại, vận tải, viễn thông, tài chính - ngân hàng, giáo dục - đào tạo, y tế...) phát triển mạnh, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế thành phố; công nghiệp phát triển theo hướng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng; kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị và thông tin đồng bộ, hiện đại; môi trường văn hóa lành mạnh; quy mô dân số không vượt quá 2 triệu người. |
Chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015
- Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng bình quân 13,5 - 14,5%/năm. Trong đó, dịch vụ tăng 16,8%/năm, công nghiệp-xây dựng tăng 9,4%/năm, nông nghiệp tăng 2,2%/năm. - GDP bình quân đầu người đạt 3.200 USD. - Cơ cấu GDP năm 2015: Dịch vụ: 54,2% - Công nghiệp, Xây dựng: 43,8% - Nông nghiệp: 2,0%. - Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 17,6%/năm. - Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 12,6%/năm. Trong đó công nghiệp tăng 12,3%/năm; xây dựng tăng 13,8%/năm. - Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8%/năm. - Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16%/năm. - Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng 11,5 - 12,5%/năm; tổng chi ngân sách địa phương tăng 10-11%/năm. - Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng 15 - 16%/năm. - Giảm tỷ suất sinh hằng năm 0,3 phần nghìn/năm. - Giải quyết việc làm bình quân hằng năm cho 3,35 vạn lao động. - Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới của thành phố) còn 0%. - 100% dân số nội thành và 95% dân số nông thôn được cấp nước sạch. - Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 100%. - Gọi công dân nhập ngũ đạt 100% kế hoạch, với chất lượng bảo đảm. - Hằng năm có trên 75% tổ chức cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh. |
(Theo Dự thảo Báo cáo Chính trị của BCH Đảng bộ thành phố Đà Nẵng khóa XIX)
(1) 9 chỉ tiêu đạt và vượt: Tăng trưởng GDP, giá trị sản xuất dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, tổng vốn đầu tư phát triển, tổng thu ngân sách Nhà nước, tỷ lệ giảm sinh, giải quyết việc làm, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia, gọi công dân nhập ngũ.
(2) Tính theo tỷ giá 16.518 đồng/1 USD
(3) Chỉ tiêu GDP điều chỉnh giữa nhiệm kỳ Đại hội XIX là 11 - 12%/năm; GDP bình quân đầu người 1.900 USD.
(4) Cơ cấu điều chỉnh giữa nhiệm kỳ là: Dịch vụ: 50,1%, Công nghiệp: 47,1%, Nông nghiệp: 2,8%.
(5) Chỉ tiêu NQ Đại hội XIX đề ra là 14 - 15%/năm.
(6) Tổng doanh thu du lịch ước đạt 3.850 tỷ đồng, tăng 20,1%/năm; tổng lượt khách ước đạt 5,8 triệu người, tăng 17,1%/năm, trong đó khách quốc tế ước đạt 1,6 triệu người, tăng 9%/năm. Trên địa bàn thành phố hiện có 55 dự án đầu tư về du lịch, với tổng vốn đầu tư 54 nghìn tỷ đồng. Các cơ sở du lịch lớn được đưa vào sử dụng như: khu du lịch Bà Nà - Suối Mơ, SliverShore Hoàng Đạt, Xuân Thiều, Olalani, bán đảo Sơn Trà, nâng cấp khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, bãi tắm du lịch kiểu mẫu Mỹ Khê và T18…
(7) Chỉ tiêu Đại hội XIX đề ra là 20 - 22%/năm.
(8) Chỉ tiêu điều chỉnh giữa nhiệm kỳ là 15 – 16%.
(9) Đã có 6 hãng vận tải container nước ngoài mở tuyến đến Cảng Đà Nẵng, đặc biệt hãng vận tải K-Line (Nhật Bản) là một trong 5 hãng tàu lớn nhất thế giới đã chính thức mở tuyến vận tải container đến Cảng Tiên Sa.
(10) Như cầu Thuận Phước, cầu Rồng, cầu Nguyễn Văn Trỗi - Trần Thị Lý, cầu Hòa Xuân; các tuyến đường Sơn Trà - Điện Ngọc, đường du lịch ra Bãi Bắc, đường Trường Sa, đường Nguyễn văn Linh nối dài, Nguyễn Tri Phương nối dài, Bạch Đằng, Trần Phú, ĐT 602, đường Đà Nẵng - Hội An, (đoạn Lê Văn Hiến - Trần Đại Nghĩa); Trung tâm Hành chính thành phố, Nhà hát Trưng Vương, Trung tâm Hội chợ - Triển lãm, Trường Chính trị, Trung tâm Hành chính huyện Hòa Vang, các khu chung cư Nại Hiên Đông, cuối tuyến Bạch Đằng Đông, Hòa Thuận, đầu tuyến Sơn Trà - Điện Ngọc, các khu nhà ở thuộc Chương trình 7.000 căn hộ cho người thu nhập thấp...
(11) Tỷ trọng kinh tế Nhà nước từ 48,4% năm 2006 dự kiến giảm còn 39% năm 2010, kinh tế dân doanh từ 44% dự kiến tăng lên 52,5%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ 5,5% dự kiến tăng lên 6,5% năm 2010.
(12) Trong đó, thu nội địa tăng 11,9%/năm, thu thuế xuất nhập khẩu tăng 9,9%/năm. Một số lĩnh vực, khoản thu ngân sách địa phương tăng khá, như thuế công thương nghiệp - dịch vụ ngoài quốc doanh (22,5%); lệ phí trước bạ (26,7%); thuế thu nhập cá nhân (44,7%); phí xăng dầu (29,4%)…
(13) Đến năm học 2009 - 2010, ngành giáo dục - đào tạo thành phố có 100% CBGV mầm non, tiểu học, trung học phổ thông và 97,8% CBGV trung học cơ sở đạt trình độ chuẩn trở lên; trong đó có 67,1% CBGV mầm non; 76,3% CBGV trung học cơ sở và 11,4% CBGV trung học phổ thông có trình độ đào tạo trên chuẩn.
(14) Một số công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, như: Nhà hát Trưng Vương, Nhà biểu diễn đa năng, Trường Văn hóa - Nghệ thuật, Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Bảo tàng Lịch sử… Một số công trình đã khởi công và chuẩn bị đầu tư, như Công viên văn hóa lịch sử Ngũ Hành Sơn, Thư viện Tổng hợp…
(15) Tổng số huy chương các hạng đạt được là 2.041 bộ, trong đó quốc gia có 1.917 bộ, quốc tế 134 bộ.
(16) Như chính sách hỗ trợ, giúp đỡ các hộ đặc biệt nghèo vươn lên thoát nghèo; giáo dục cảm hóa thiếu niên hư, vi phạm pháp luật; giúp đỡ học sinh bỏ học trở lại trường; lập quỹ cho vay giải quyết việc làm đối với các đối tượng phạm tội đã chấp hành xong hình phạt; phòng chống bạo lực gia đình...
(17) 100% trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi được chăm sóc, giúp đỡ từ chính sách của Nhà nước, cộng đồng và các tổ chức quốc tế; 97,2% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, hỗ trợ bằng nhiều hình thức thiết thực; 96,5% trẻ em khuyết tật hay tàn tật được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình và các trung tâm bảo trợ xã hội; 100% trẻ em hộ nghèo được hưởng các chính sách hỗ trợ về giáo dục, đào tạo nghề, y tế...
(18) Việc thực hiện chủ trương này đã giảm được 214 biên chế đại biểu HĐND cấp quận, huyện và 1.127 biên chế đại biểu HĐND cấp phường; giảm được nhiều tầng nấc trung gian, giúp người dân tiếp cận nhanh với người có trách nhiệm giải quyết công việc; tiết kiệm cho ngân sách hơn 7 tỷ đồng.
(19) Thực hiện Đề án 30 của Chính phủ, thành phố đã tiến hành rà soát bãi bỏ các văn bản có nội dung trái pháp luật và kiến nghị đơn giản hóa đến 41% thủ tục hành chính, vượt 11% so với yêu cầu của Chính phủ.
(20) Qua 3 năm triển khai thực hiện Cuộc vận động, toàn thành phố có 230 gương điển hình tiêu biểu, gồm 67 tập thể và 163 cá nhân. Ban Chỉ đạo thành phố đã biểu dương 16 tập thể và 17 cá nhân có thành tích xuất sắc nhất.
(21) Đề án 393 đào tạo 100 thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài, Đề án 47 hỗ trợ HSPT học đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước, Đề án 89 tạo nguồn cán bộ cho chức danh bí thư đảng ủy và chủ tịch UBND phường, xã. Đến nay, đã có 67 công chức, viên chức đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ tại các cơ sở nước ngoài và 284 học sinh các trường THPT tham gia chương trình đào tạo đại học, trong đó 142 học sinh được đào tạo tại các cơ sở nước ngoài.
(22) Hiện nay, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đơn vị thành phố đạt 33,3%; tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp thành phố chiếm 22,6%, cấp quận, huyện chiếm 24,7%. Nhiều cán bộ trẻ, có năng lực được bổ nhiệm cấp, trưởng, phó các quận, huyện, sở ngành thành phố.
(23) Ban hành Đề án “Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, công chức phường, xã và sắp xếp lại tổ chức dưới phường, xã”; Đề án 89 về tạo nguồn chức danh cán bộ lãnh đạo phường, xã.