.

Hoằng pháp nơi hải đảo

.

Minh Châu Hương Hải là một thiền sư rất nổi tiếng trong chốn thiền lâm Việt Nam. Tổ tiên 4 đời của ông là người Áng Độ, Nghi Lộc, Nghệ An, theo phò Nguyễn Hoàng và đến sống tại Quảng Nam, ông sinh tại làng Bình An thượng, phủ Thăng Hoa, tỉnh Quảng Nam vào năm 1628.

Năm 18 tuổi ông thi đỗ Hương tiến và được bổ làm Tri phủ Triệu Phong. Năm 1652 ông đến thọ giáo với thiền sư Viên Cảnh, được đặt pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự là Minh Châu Hương Hải. Năm 30 tuổi, ông từ quan và xuất gia, sau đó đóng thuyền đến Cù lao Chàm, dựng ba gian am nhỏ để ở và tu tập.

Chùa Hải Tạng ở Cù lao Chàm, nay thuộc xã Tân Hiệp, thành phố Hội An. Ảnh: N.Đ.C
Chùa Hải Tạng ở Cù lao Chàm, nay thuộc xã Tân Hiệp, thành phố Hội An. Ảnh: N.Đ.C

Sách Hương Hải thiền sư ngữ lục có đoạn chép lại hành trạng tu tập của ông với những câu chuyện đẫm màu liêu trai. Chuyện rằng, lần nọ vào canh hai, môn đồ của ông bỗng thấy một con ma da đen, thân dài hai trượng, đứng trước sân một lúc rồi biến mất. Đến canh ba, thấy một con rắn lớn đến bò quanh mình ông, ông thu mình lại, dời đến trước Phật, chỉ nghĩ đến sức mạnh của thần chú. Một lúc, rắn cũng biến mất.

Lần khác, ban ngày bỗng nhiên mây đen nổi lên che trước sân, hóa làm phong ba dữ dội, gãy cây tróc nhà, cát bay đá chạy, một lúc mới hết. Tới ba tháng, ban đêm núi vắng bỗng nghe tiếng mèo kêu gào khoảng hơn một vạn con.

Tám tháng sau, đêm vắng canh khuya, ông đang ngồi thiền định trước bàn Phật đèn đuốc sáng choang, rực rỡ như ban ngày, bỗng thấy ma quân trai gái vây quanh bốn phía, có đứa cầm giáo cầm mác, có đứa dắt trâu, dắt ngựa, dắt voi, trong lòng bụng đau không thấy đèn sáng, mắt toàn thấy ma tinh, không thấy tượng Phật.

Lúc ấy, ông tận lực trì chú, bí mật nhiều cách cũng không linh nghiệm, bèn lập chí Kim cang, nghĩ tới lửa Tam muội, quyết định đốt thân mình tiêu cả thế giới, tiêu cả thân tâm, quả nhiên thấy nghiệm. Một lúc ma cảnh đều không thấy nữa…

Sáng hôm sau ông rời Cù lao Chàm trở về làng cũ là xã Bình An thượng thuộc đội thợ đóng thuyền của phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam. Ông bảo với các người xóm giềng cũ: “Cái chỗ cù lao đó, từ lúc được mở mang đến nay, vẫn không nhờ đâu để được khai hóa, đó là đất cung ma núi ác, việc mở đạo cũng thật là khó”.

Ông về được một tuần, bỗng thấy một người Mán đến thỉnh cầu. Ông hỏi “đang đêm mà đến cầu thỉnh ta thì nghi là có sự việc gì khoản khúc (khúc mắc trong lòng - ĐNCT) đây”. Người Mán thưa: “Xóm làng của tôi có ba đền cũ ở núi Tiêm Bút La (tên khác của Cù lao Chàm - ĐNCT).

Một miếu là của Cao Các Đại Vương, một miếu là của Phục Ba Đại Tướng Quân và một miếu là của thần Bô Bô Đại Vương. Hôm tổ sư về làng đến ngày thứ tư thì trong làng bỗng thấy ba vị thần đều nhập lên người ngồi đồng cùng nói ra một lời, tự xưng là thần của ba miếu, bàn tới việc ma tích cũ gây quậy đến mấy phen cùng hội đồng các ma quỷ yêu tinh làm phiền não và gia hại tổ sư.

Ba chúng tôi ngồi xem thắng bại thế nào, bỗng thấy tổ sư biến hình biến tướng, không biết ở chỗ nào, bọn ma rút mất. Chúng tôi thấy tổ sư trai giới đạo hạnh đều trọn vẹn nên rất nể phục, xin báo với làng xóm cung nghênh sư trở lại”.

Bấy giờ những người trong làng xóm thấy việc như vậy, bèn vào xin thưa thỉnh ông duyên do việc trước. Ông nghĩ rằng “bọn ma e phục, sự việc đã hiển nhiên” nên sau đó cùng đệ tử chuẩn bị thuyền buồm theo sóng lướt ra lại đảo. Được 8 năm mà không thấy trở ngại nào, ông được thần gọi quỷ giúp, cảm ứng tự nhiên, Phật pháp thịnh hành danh thơm bủa khắp gần xa.

Tiếng tăm tu thiền của ông được nhiều người biết đến, trong đó có Hoa Lễ Hầu. Người này tâu với chúa Nguyễn Phúc Tần về ông và ông được chúa mời về trụ trì Thiền Tĩnh Viện trên núi Quy Kính (còn có tên là núi Quy Sơn; nay thuộc xã Hoài Ân, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên-Huế). Mẹ của chúa và 3 người con đều đến quy y cùng đông đảo quan lính.

Bấy giờ, quân Trịnh thua trong trận đánh năm 1648. Trong số tù binh bị quân Nguyễn bắt được có Gia quận công, người này đã đến theo học với ông. Có người dèm pha Gia quận công muốn bàn tính chuyện vượt biển về Bắc với ông, Nguyễn Phúc Tần cho điều tra không có kết quả, nhưng nghi ngờ bèn đưa ông trở về Quảng Nam. Vì sự đối đãi này, ông có ý vượt biển ra Bắc.

Đó là vào năm 1682, ông cùng hơn 50 đồ đệ đi thuyền đến Vinh vào yết kiến quan trấn thủ vùng đất này. Sau khi khám xét và điều tra, Trịnh Tạc cho Đường quận công đi đón tiếp ông về kinh đô tiếp tục điều tra và đã xác định ông đúng là người Áng Độ, Nghệ An.

Bấy giờ, Trịnh Tạc mới mất, Trịnh Căn nối ngôi và ban cho ông áo mão, lương thực và tiền bạc, rồi cho về trấn Sơn Nam, giao cho quan trấn thủ Lê Đình Kiên thành lập viện Thiền tịnh, sau đó là chùa Nguyệt Đường tại phố Hiến. Chính trong thời gian ở tại chùa Nguyệt Đường, ông đã diễn dịch ra tiếng Việt 20 bộ kinh luận cùng một số thơ văn. Ông viên tịch vào ngày 12 tháng 5 năm 1715.

Sau này, một số vị sư khác cũng tiếp tục ra cù lao Chàm tu tập, hoằng pháp nhưng không hiểu vì lý gì mà không có vị nào ở được lâu. Hiện nay trên đảo chỉ có một ngôi chùa duy nhất, đó là chùa Hải Tạng, nhưng ngôi chùa này lâu nay cũng không có vị sư nào trụ trì.

NGÔ ĐỨC CHÍ

;
.
.
.
.
.