.
TRUYỆN NGẮN

Mưa trên mái am Mù

.

Đường tắt từ Bàu Bầu qua núi Rướn non ba cây số băng trên những nổng cát trơ, lún ngập mắt cá chân, dưới nắng chang chang là con đường chẳng có đường gì cả. Xách dép nhằm hướng đông nam, đi theo kiểu đường gì thì cũng như lội trên lửa. Cát nóng bỏng chân thì đứng lại, giủi cát gạt qua hai bên lộ lớp đất tơi ẩm, giúi chân xuống đó là mát ngay, lại đi!

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

Tới lúc thấy phía chân trời ló lên một chùm xanh, lộ dần đỉnh núi Rướn nhọn lúc lắc như kim la bàn là chắc chắn không bị lạc.

Bác sĩ Tín nhớ như in lời Hào chỉ đường bữa trước. Là người ưa mạo hiểm, anh gửi xe đạp chọn con đường gian khổ mỗi bước nhích trên cát mất nửa bước lùi, thay vì đi vòng hơn hai chục dặm tỉnh lộ vào cửa Dịnh lộn ra.

Từ ngoài trảng trống đặt chân chạm bìa núi Rướn cây cối um tùm nên Tín có cảm giác như bị rình rập. Không phải chỉ phía trước, đằng sau, mà cả bốn bên lành lạnh. Tự nhiên anh dừng lại thủ thế thì có tiếng động mạnh sau gốc cây máu rồng tán lá phủ tròn tối om giữa rú. Một người cầm mác cán dài lách ra cất tiếng chào cùng lời tự giới thiệu giọng Huế nhan nhác!

- Anh là bác sĩ Tín phải không? Chào bác sĩ, em là Khả!

Chi tiết có tên Khả thì Hào đã nói với Tín! Khả - con trai o Thắm ra đầu núi đón anh. Mẹ Khả từng đeo AK làm nữ du kích thời núi Rướn còn là chiến khu đặc biệt không lập trên núi mà nằm dưới biển, có các cù lao đá mọc sát bờ, thuộc chiến trường cực Nam. O Thắm từng giữ chức trung đội trưởng TNXP, sắp tới là trạm trưởng hộ sinh!

Núi Rướn còn có tín hiệu đặc biệt nữa là giọng nói rặt Huế lọt thỏm giữa Nam Trung bộ! Có nguồn nói là cụ tiền hiền ngày xưa tới khai sơn phá thạch nơi đây là con hoang bà quận chúa Mỳ bị trục xuất khỏi kinh đô Phú Xuân! Có nguồn lại nói hiện tượng thì lạ nhưng không hiếm, vì ở ngoài xứ Phù Mỹ có một làng nói tiếng Thuận An, ở Mộc Bình, Như Án… có nhiều làng nói giọng xứ Nghệ đặc sệt. Họ là những nhóm dân di cư tìm vào đất mới lập nghiệp đậu lại đâu như từ hồi các chúa Nguyễn (Đàng Trong) cầm gươm đi mở cõi!

Khả cất tiếng hú gọi người đang lúi húi chặt bụi chà là rậm. Ông bạn vong niên loắt choắt của Khả là ông Bộ. Lời đồn ông Bộ hồi đang còn ở truồng bị con chó mực rông đớp mất thằng nhỏ chạy tuốt ra trảng nuốt trọi, coi như thiến. Kiểu thiến như vậy là trời thiến chớ không phải thiến thường, đặng sau đó giao cho ông Bộ giữ chức canh giữ non Tiên là đất nhà trời, trông chừng bầy tiên nữ nô đùa trên đỉnh núi Rướn!

Giọng nói eo éo của ông Bộ như liếc dao lên đá bỗng nhiên mất tiếng. Ông chào Tín, tay vung chiếc khăn vắt vai màu bạch yến của phụ nữ, điệu bộ như lên đồng, xướng: Phụng mênh Tây vương hẹn kỳ môn đông uyễn từ chính nam tới Thạch Sa, ngộ tà khí Mộc nên quý nhân thuộc Thổ, ân trạch lớn, tuổi đinh mùi, 28 tròn… mời tẩy trần trà quạu!

Tín kinh ngạc vì lời chào lạ lùng nghe rất bí hiểm của ông Bộ. Cả ba dắt nhau đi về trụ sở uống trà, thật ra là uống rượu cúng, đợi gặp ông Chiến trưởng thôn. Khả giành xách cặp, đeo túi hộ Tín, vừa đi vừa cười ha ha!

Theo lệ thì thôn không có trụ sở. Riêng nơi đây chân trời góc bể, mây nước bao la, sơn cùng thủy tận, cảnh đẹp mà hiu quạnh, quanh năm lúi húi làm ăn, dân không biết ủy ban xã là đâu nên được ưu tiên lấy am Mù làm trụ sở.

Am Mù dựng trên vỉa đá hoa cương rộng thờ 12 bà mụ nên am được đặt tên là am Mụ, và bởi dân núi Rướn nói giọng Huế, dấu nặng hóa dấu huyền nên mụ thành mù! (Tương tự như dân Quốc Oai, Hà Nội nói dấu huyền ra dấu sắc “Đi Lào về có đài không?” là “đi láo vế có đái không?” vậy!

Bác sĩ Tín nói với trưởng thôn Chiến là nhiệm vụ của anh về núi Rướn giúp xây dựng một trạm y tế, bắt đầu từ trạm hộ sinh phục vụ cho nhân dân. Ông Chiến cười khà gục gặt đầu nói biết rồi, biết rồi. Ở đây cá thu và muối không thiếu, chỉ thiếu chuyên môn và dược phẩm nên bà con rất khổ. “Đờn” bà biển đẻ “kịch liệt”. Thôn cử mù Thắm, à quên O Thắm làm trạm trưởng y tế kiêm hộ sinh. Hơi cổ một chút nhưng được cái nhiệt tình thì không thiếu, chỉ thiếu chuyên môn, i tờ kỹ thuật. Huyện hẹn quý sau lên trên đó học bổ túc nghiệp vụ!

Trụ sở thôn chỉ có độc chiếc bàn và hai cái băng. Bên ngoài chất ba đống gạch vỏ sò chuẩn bị xây nhà hộ sinh. Hậu cung am Mù có đủ ban bệ, đồ tế tự… hương khói tỏa thơm. Ông Bộ làm thủ từ trên non Tiên, trông nom bàn cờ đá của Thái Thượng Lão Quân, kiêm quản trị am Mù!

Nhà ông Bộ ở nách am, gần chợ chồm hỗm có quán nước lão Tế là “câu lạc bộ không chuyên” của đám tào lao chi khương, là địa điểm thu nạp và phát hành thông tấn huyên thuyên, nhậu nhẹt của xóm biển heo hút. An ninh thôn đã mấy lần nhắc nhở nên tin tức hồi này ắng đi, có phần thưa thớt, buồn!

Tín được bố trí ở nhà ông Bộ cho tiện sinh hoạt, gần nhà hộ sinh liền kề mảnh đất am Mù, sát chân núi lộng gió.

Chiều nào trong quán nước lão Tế cũng có cuộc rượu nhậu khô nướng ghi sổ. Thi thoảng mới có người ghi nợ bằng tiền, đa số ghi nợ trả cá, hoặc mực theo mùa. Họ nhắm và nói chuyện thế giới, chuyện sóng thần, chuyện thôn ngày càng nghèo đi… Con đề hôm qua lại về 45 liền hai kỳ, nhục chưa, bố khỉ… Hèn chi mấy vụ ăn giải khuyến khích xổ số kiến thiết của thằng Tỵ, con Chao thì thôn ta có lóe lên chút đỉnh hưng thịnh. Nhưng đó cũng chỉ là cái hắt nắng lúc hoàng hôn lọt qua sườn núi Rướn, báo hiệu sự tiêu vong của thập niên tốc lực huy hoàng!

Cho nên ngoài bãi lăng Ông nổi sò đàn ngao đống. Bà con gặp thời ùn ùn vật chất, trọng tiền, thờ thần tài, coi rẻ cái tâm, chữ đạo, sự thực học của thánh hiền!

Thế là trời phạt! Thôn đang yên lành thì con ky đực nòi dại gái nhà Nể dắt một lũ lỷ chó cái về đú đởn ngoài nổng, bị một trận đòn nên thân. Ky bị chém ngang lưng. Nó lết về tới ao Trà nằm chết, máu me giây đỏ góc sân am Mù.

Rồi thiếm Miều, dì Quá ra đi bất đắc kỳ tử! Cả thôn dự đám cưới nhà Xứng bị ngộ độc thực phẩm, ói mửa tùm lum từ rạp che trước sân, băng qua nổng chạy hộc tốc lên bệnh xá huyện thì hôn mê.

Theo dớp là thằng Tự con nhà Miến ban đêm dứt chạc tháo trộm thúng bơi một lèo qua vụng Dịnh, kéo đoàn kéo toán rủ nhau đi bụi đời. Chúng tụ hội ngoài phố thị hành nghề ăn cắp, đâm thuê chém mướn, hút hít thả giàn. Một bận cạn tài chính mua bột trắng bèn quay về nhà khảo tiền, chửi cha mắng mẹ om sòm. Tự đạp đổ bàn thờ, từ bỏ ông bà tổ tiên, làm tủi hổ người sống, nhức nhối anh linh người khuất bóng!

Đúng vậy! Thôn ta đang kỳ hội bĩ các ngài ạ! Cu Sỹ đồng bóng hét như sấm rồi ngồi ôm đầu bứt tai. Hắn có lối đắn đo trước lúc nói như đang thận trọng thò tay rút từng chữ trong kho ý nghĩ rối bời của mình. Rằng hội bĩ tức quẻ bĩ là cái lẽ thường trái đạo!... Nó nói đại ý thế và châm đóm hút thuốc lào kiểu bắc, ngửa mặt nhả khói lên trời thành từng vòng tròn nhân ảnh!

Tợp ngụm trà đặc queo, tay đeo kiếng mát ề à phụ họa quẻ bĩ ứng với cái thế không thể không suy của thôn, mệnh số tắt nghẽn, cái dở phình ra, điều hay nhót lại, đầu voi đuôi chuột, vóng lên một hồi như mũi tên lao hết đà chúi xuống.

Chuyện tào lao quay sang chủ trương mở đường quốc lộ chạy song song với bờ biển, xóa bỏ cảnh cô lập, mở mày mở mặt cho bao thôn xóm ngư dân heo hút… trong đó có núi Rướn, am Mù!

Có nghe làm vậy! Người đội mũ Adidas hờ hững nói nhưng chẳng ai đoán biết được mọi chuyện sẽ kết thúc như thế nào? Hèn chi… Một lão sún răng dẫn chứng thầy địa lý kiêm tử vi Nhất Sanh trên phố đã khẳng định phương vị âm dương của thôn ta. Nó không đơn thuần là một vị trí địa vật lý đo bằng mét ca-rê khi mở đường phục vụ giao thông và quốc phòng. Bởi đo bằng thứ thước nhôm cứng nhắc ấy thì thử hỏi tấm lòng bà con ta bám biển, dựng chiến khu giữ làng hồi hỗm… thì đo bằng cái gì?

Rồi thì các đại gia giàu nứt đố đổ vách đánh hơi mò tới. Chuyện trong thôn xuất hiện một kẻ bạc tỷ đã là một biến cố quan trọng, huống hồ cả bầy chúng xô tới thì có mà xã hội quay trở lại chế độ nô lệ ngụy trang dưới thảm họa phân biệt giàu nghèo, các giá trị đạo đức lộn bát nháo à?

Chao ôi! Tiền thì có quan trọng cái con mẹ gì! Bọn nghèo làm kiệt sức mà cơm chẳng đủ no, còn bọn chúng chẳng rõ là loại người nào lại sống xa hoa giàu sang đến thế? Tay đeo kiếng mát rền rĩ tiếp là chẳng ai giấu nỗi cái nhìn tọc mạch, đểu cáng của nó đâu mà sợ!  Đ… thèm!

Vậy ông muốn gì nào? Muốn chúng nhịn đói mà làm như ông chắc?

Thôi đi, tay đội mũ Adidas nói ông đừng có mà dạy dỗ, chỉ bảo trong lĩnh vực chuyên môn hộ người khác, mà mình thì cóc biết mô tê chi nghe!

Không phải là dạy đời, mà chỉ giúp mọi người thôi!

Xin ông, tay đeo kiếng mát đáp đầu óc tôi đang bị nhồi đầy các loại giáo huấn rồi. Con lạy ông nội!

Nhóm nhậu nhẹt hưởng ứng nhiệt liệt. Hề! rượu và đú đởn ông chọn thứ nào? Cả hai à? Hăng thế! Đã vậy thì cứ phó thác cho số mệnh!... Họ cãi vả triền miên, và lạ cái là họ không làm gì hết, toàn nam giới sức dài vai rộng chuyên bám quần vợ ngồi dông dài ăn chơi xả láng, phun vào nhau các đám khói thuốc lá dày đặc rẻ tiền.

Nghe nói am Mù cũng hót hả? Thế thì chẳng còn cái chó gì là thiêng liêng nữa! Ngu quá!

Lạy lục những thằng ngu, quen ngu tới mức không biết mình ngu, xin hãy bớt ngu cho thiên hạ nhờ!

Cu Sỹ nằm trong số người lo lắng trời ơi đó. Đã ba ngày hắn bỏ đi biển không thèm về nhà, tóc tai phờ phạc. Mẹ vợ Sỹ đi tìm, réo hết hơi – Con vợ mày đau đẻ ba ngày rồi mà mày mất mặt. Về nhà đặng lo chôn nó đi, đồ mất dạy!

Mẹ kiếp! Cả bọn nhớn nhác - thế này thì thằng chó nào dám đâm đầu vào vợ, vào cái đám hôn nhân chết tiệt nữa!

Sỹ không thèm nghe cong lưng chạy về nhà. Bác sĩ Tín phản ứng nghề nghiệp liền chạy theo Sỹ. Anh bị cản lại. Người nhà sản phụ nhất định không cho đàn ông lạ vào. Họ cử người đi tìm o Thắm, bà mụ vườn của thôn. Người thì bảo o Thắm đi học hộ sinh trên huyện. Người thì bảo hỏi thằng Khả xem mẹ nó ở đâu? Dứt lời thì đã thấy bác Chi và o Thắm chạy vèo tới gặp bác sĩ Tín. Anh cười ngượng, không dám bước qua cành dứa dại treo lủng lẳng đầu cổng, ra hiệu cho Thắm cứ vào.

Huệ vợ Sỹ chuyển dạ con so đã ba ngày mà thai nhi không chịu ra. Cô nằm bất động trên giường, xanh mướt như tàu lá chuối, tóc rối, mặt mũi hốc hác. Chỉ cái bụng thè lè thỉnh thoảng vặn vẹo làm Huệ rúm lại vì đau đớn.

Người thì hét buộc võng cáng Huệ lên bệnh xá huyện. Kẻ bảo cáng cầm bằng quay giữa nổng nắng à? Lại bảo còn nước còn tát, bắt con gà trống hoa cắt tiết cho tao cái, lẹ lên!

Thắm ôn tồn xua mọi người ra hết ngoài sân. O lệnh đốn cây chuối đang trổ buồng, bỏ bẹ ngoài lấy lõi cắt thành 12 khúc như 12 cái bánh trung thu. Đoạn O lấy trong túi vải đôi chập choeng, quyển sổ xé phần sau, chọn lấy 12 tờ giấy trắng hai mặt, huy động ai có bút máy Trường Sơn, Hồng Hà thì rút ra, bóp véc xi dồn mực xuống cái khu chén úp sấp. O bẻ đọt tre tươi, tuốt lá, vạt nhọn, nhằn tà đầu, chấm mực vẽ 12 bà Mụ!

Bà Mụ rất đơn giản gồm một vòng tròn làm đầu và mặt, chấm hai mắt, mũi, mồm. Tiếp là tréo chữ thập làm mình và hai tay. Thứ là hình tam giác làm váy, móc thêm hai chân, đoạn kẹp tranh vào que cắm lên 12 khúc chuối. O bày biện vàng mả, tướt dây chuối buộc túm ống quần, rút khăn vắt vai thắt quanh lưng, thắp hương, rót rượu, gõ chập choeng, hát múa, cúi lạy trời đất thần linh, 12 bà Mụ giám sát việc sinh đẻ, bày dạy hài đồng chốn dương gian!

Không khí trong nhà, ngoài sân lắng đi. Mọi người chứng kiến đều yên vị trong hiện trạng tâm linh huyền ảo, hớp hồn!

Huệ lăn lộn kiệt sức trước cơn đau banh da xé thịt suốt mấy đêm ngày ròng rã, khiến mọi người cuống cuồng. Sỹ hoảng hốt bê bổng cái cối đá chạy quanh nhà, mồ hôi mồ kê ròng ròng.

Những cơn đau liên tiếp làm Huệ rạt người, biến dạng, hơi thở giật cục như sợi chỉ sắp đứt. Các bà các cô bặm môi vây quanh, có chị không chịu nỗi bật ra tiếng khóc tuyệt vọng!

Một luồng gió giông dữ dội ào ào tràn qua thôn bốc bụi và lá khô cuộn lên mù mịt. Trời đất lóe sáng trong tiếng sét như đánh bật cả núi Rướn và những căn nhà tre ọp ẹp của ngư dân.

Chung quanh chưa hoàn hồn thì Huệ buông hai tay thở hắt ra, đầu nghiêng qua một bên, máu đỏ tuôn đầm đìa. Thắm vỗ tay bắt quyết, ném choang cái bát sành đựng gạo muối, quỳ trước 12 bà Mụ, mặt ngửa lên bái lạy giữa thinh không, mồm

đọc: Toàn toàn biệt biệt! Bất đồng tương khắc, đồng loại tương phối, vãng lai bất cùng vị chi thông, nhất hạp nhất tịch, nhất hô nhất hấp… ới!(*)

Dứt tiếng quát của o Thắm thì Huệ mơ hồ dạng hai chân, máu trào ra cùng với một hài nhi ngạt thở. O Thắm gạt mọi người, bế sốc đứa bé lên ngậm chặt mồm nó, hà cái sức nóng ngùn ngụt lẫn cả phẫn nộ, tình thương, nỗi đau và hạnh phúc qua cái hình hài bé tẹo đang hồng lên cất tiếng khóc oe oe!

Mọi người ré ầm như pháo nổ. Kẻ cười người khóc, vừa cười vừa khóc hoan hỷ đầy sân.

Bác Chi vén ống quần lau nước mắt chảy tràn ra trong lúc đang cười. Bác bảo cái con “mù Thặm” giỏi chi lạ! Bà mụ dạy cho hắn học đâu biết đó, bạo mồm bạo miệng, sáng dạ quá trời! Hồi TNXP ở Trường Sơn mới về trời nắng như đổ lửa, mặt đất tựa nồi bánh đúc nóng vừa đổ ra mâm khói bốc ngùn ngụt, thì lãnh đạo xã họp để giải quyết việc cô Yến, cô Tài, cả Thắm nữa vừa giải ngũ về bỗng nhiên đồng loạt có thai. Cha mẹ các cô lo sụt cả người, còn các cô thì tươi hơn hớn tuyên bố - Tuổi trẻ của chúng tôi ở ngoài mặt trận, nay về quê không lấy được chồng! Vì sao các ông ủy ban còn chẫu mồm giả bộ chất vấn chúng tôi? Vì già, xấu, bệnh tật, sốt rét kinh niên, tóc rụng chứ còn làm sao? Đâu phải bọn này không có cái tèm hem ấy? Nó y sì sì đây này! Chúng tôi có quyền có con, có quyền được làm mẹ chứ? Hậu quả này không các ông thì ai giải quyết? Sung sướng gì cái nỗi phải chạy, phải ngửa thân xin các người chút tinh trùng! Mà đâu phải cứ chạy là thắng cuộc đua… hu hu!

Thằng cha ủy ban đâu phải loại kém cỏi gì bèn há miệng nói xóc vậy là các người đã nhắm mắt chạy theo mời mọc một tên khốn kiếp, không yêu các… vị? Trong khi quý vị có thể chọn bất kỳ ngài phò mã nào trong huyện này cũng xong ngay! Hề hề!

Thắm cười, liếc nhìn bác Chi nói chuyện về mình ngày xưa độn giẻ rách làm bầu để cứu trợ chị em không may có hoang thai, sinh nở giấu giếm ngoài rú! O rửa tay, dặn dò mẹ chồng, em chồng Huệ kỹ lưỡng rồi ra về. Bác sĩ Tín nói với Thắm sáng mai em trở lên huyện, mọi việc chuẩn bị cho trạm hộ sinh coi như xong.

Tín đứng nép sát bờ rào ô rô cảm thấy xấu hổ khi khoa học bó tay cả những nơi hẻo lánh, dân trí khiêm tốn, đứng ngoài sân nhìn vào không giúp được gì cho sản phụ! Anh dõi theo bóng đêm lắc lư trên vai Thắm đang chìm vào ngõ cát sâu hun hút, thấy không có nỗi đau nào mà ngọn gió đêm thâu khi thì làm dịu đi, khi nhân lên những nỗi niềm bất tận trong anh!

Trước khi rời núi Rướn, bác sĩ Tín bồn chồn không ngủ được. Tiếng động ban đêm như chép lại y nguyên sự tích ban ngày, cứ như trống lễ hội âm vang trong mạch đất! Nó là bản tự họa của trần gian chăng? Nó lưu các dấu chân o Thắm in vội vàng trên cát, im lìm dưới làn gió lạnh lướt qua, lăn tăn tựa ngàn vạn con mắt nhìn vào anh, dựng anh dậy thật sớm để vào hậu cung am Mù xem thử. Anh liên tưởng việc làm của Thắm, tâm nguyện chiêm ngưỡng các nữ hộ sinh huyền thoại trước khi quay về!

Cánh cửa am Mù bằng gỗ mộc hé mở. Ánh sáng tựa một màu trắng loãng hoặc đại loại như thế tràn vào bệ gạch thờ có dãy kệ xếp hàng ngang sau chiếc lư sành da Chu mốc meo. 12 bát hương đặt chông chênh trên bốn bộ tam sự khảm xà cừ thờ 12 bà Mụ cai quản việc sinh đẻ chốn trần gian!

Bác sĩ Tín giật mình. Sau các bát hương là bộ bài vị tiện bằng gỗ sơn son thếp vàng đã bạc màu, chạm hình 12 bà Mụ. Nét chạm đơn giản như 12 bà Mụ của Thắm vẽ chiều hôm qua, lúc làm lễ cầu xin cho Huệ được mẹ tròn con vuông!

Từ tả sang hữu là bà Mụ Sanh đang tích hơi rặn đẻ, mồm chạm hình chữ nhật méo xệch vì đau đớn! Mồm bà Mụ dạy bú dạy ăn chạm hình đồng tiền có lỗ vuông, hai nét môi nhu nhọn mút chùn chụt! Tiếp là bà Mụ dạy ngủ nhắm hai mắt, mồm chạm nét ngang, môi mím chặt! Bà Mụ dạy chơi, dạy cười, chạm nét môi hình bán nguyệt tươi rói, hai khóe lúm sâu! Môi bà Mụ dạy hờn, dạy khóc, chạm hai khóe môi cụp xuống! Theo đó là các bà Mụ dạy lẫy, dạy ngồi, dạy bò, dạy đứng, dạy đi! Bà Mụ dạy nghe thì chạm đôi môi và hai mắt chụm lại chăm chú! Mồm bà Mụ dạy nói chạm hai môi nhỏ xíu, ít lời!

Tín thành kính châm đèn mù u, thắp nhang cắm lên 12 bát hương! Chai rượu cam ông Bộ khui cúng bà Mụ hôm qua đã rót ra chén một phần. Hai phần còn lại bắt tia lửa hương rưng rưng, ánh lên như ráng chiều, bừng giấc mơ đỏ thắm thời sinh viên của Tín bất ngờ lâm râm cất tiếng nguyện cầu!

Anh trở về huyện theo lối nắng hạ rơi từng khóm xuống cát nóng, mà lòng thì vấn vương mãi chuyện mới diễn ra. Cơn mưa bóng mây rắc từ khơi xa vào bờ, gieo vài hạt cong cong trên mái am Mù, trông như thượng đế đang nghiêng quả bầu tiên rót mỹ tửu ban thưởng công lênh cho các nữ thần nhà trời!

Am Mù cất bằng vôi trộn mật đã nhỏ, mưa làm am càng nhỏ. Nó là tâm linh kiến tạo duy nhất về sinh nở, về Mẹ - tồn tại lâu dài trong dân gian đã trở thành văn hiến, thành mê đắm để cho con người - mãi mãi làm việc vì nó, đấu tranh vì nó, hạnh phúc vì nó!

QUAN NAM TRƯỜNG ĐỊNH


(*) Hai cái lực động, một ra một vào, có cùng tất hợp, không cùng tất chống, một sinh một tử, một vào một ra… nào!

;
.
.
.
.
.