Người thầy đặc biệt của những "vầng trăng khuyết"

.

Một giờ dạy của thầy Nguyễn Xuân Việt (Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập Đà Nẵng) hiếm có khi nào đi đúng trình tự của các bước trong giáo án. Thậm chí, có khi suốt tiết học, thầy chỉ làm được mỗi việc là làm sao cho học sinh (HS) thôi không khóc; có những tiết học, thầy giáo ướt đẫm mồ hôi vì cùng với HS chơi đuổi bắt ở ngoài sân.

Tận tụy với HS, tận tâm với nghề nghiệp, cho dù môi trường dạy học có không ít khó khăn, thử thách, thầy Nguyễn Xuân Việt là gương mặt đại diện cho giáo viên Đà Nẵng được vinh danh trong chương trình Sẻ chia cùng thầy cô (do TƯ Hội LH Thanh niên Việt Nam phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tập đoàn Thiên Long tổ chức, tôn vinh 63 thầy cô giáo dạy trẻ đặc biệt trên khắp cả nước) năm 2018.

Thầy giáo Nguyễn Xuân Việt đang dạy giờ giáo dục cá nhân cho một học sinh mắc hội chứng khó đọc.  Ảnh: H.T
Thầy giáo Nguyễn Xuân Việt đang dạy giờ giáo dục cá nhân cho một học sinh mắc hội chứng khó đọc. Ảnh: H.T

Tốt nghiệp khóa đầu tiên (năm 2008) của ngành Sư phạm giáo dục đặc biệt, Trường ĐH Sư phạm (ĐH Đà Nẵng), Nguyễn Xuân Việt còn tham gia thêm hai khóa học ngắn hạn về công tác xã hội ở Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội) và vào TP. Hồ Chí Minh xin thực tập tại Bệnh viện Nhi đồng 1 về chăm sóc, trị liệu cho trẻ khuyết tật. Việt cho biết, hai khóa học này giúp mình có thêm kiến thức và trải nghiệm thực tế để làm tốt công việc của một giáo viên trong môi trường giáo dục quá đặc biệt: dạy cho trẻ tự kỷ, chậm phát triển trí tuệ…

Năm đầu tiên nhận công tác tại Trường Phổ thông chuyên biệt Nguyễn Đình Chiểu (nay là Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập Đà Nẵng), thầy giáo trẻ Nguyễn Xuân Việt phải mất 2 tháng mới bắt đầu làm quen được với công việc thực tế. “Năm đó, tôi được phân công là giáo viên hỗ trợ của lớp 2 - đây là lớp có HS khuyết tật trí tuệ nặng nhất của trường. Công việc của giáo viên không chỉ đơn thuần là dạy mà còn kiêm đủ thứ việc không tên khác. “Chuyện HS làm đau mình và đau thầy giáo là chuyện quá bình thường.

Có đôi khi, một giờ học thành công chỉ là một giờ học mà HS không quậy phá. HS lớn rồi nhưng không tự chủ được trong việc vệ sinh, có những em lúc nào cũng nhễu nước dãi ướt hết cả áo… nên giáo viên phải giúp”, thầy Việt kể.

Bằng sự cảm thương với những thiệt thòi của HS, thầy giáo trẻ Nguyễn Xuân Việt đã vượt qua những thách thức của công việc để trụ lại với nghề suốt trong gần mười năm qua và luôn tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với bệnh trạng của từng HS.

Hôm tôi hẹn gặp Nguyễn Xuân Việt tại Trung tâm, thầy đang có giờ dạy giáo dục cá nhân với một HS lớp 2 Trường tiểu học Hồng Quang mắc hội chứng khó khăn về đọc.

“Vì em đến học tiết giáo dục cá nhân khi đã gần hết năm học lớp 1, nên mình áp dụng phương pháp cho HS học từ nguyên khối luôn chứ không đánh vần nữa. Và những từ này phải gắn liền với vật thể cụ thể hoặc mô hình, như muốn em ghi nhớ từ quạt thì phải gắn với chiếc quạt máy”, thầy Việt cho biết. Phòng học chỉ có 2 thầy trò nhưng thầy giáo không vì thế mà “nhẹ việc”.

Thầy Việt chỉ vào từ “chậu”, bé N.T.T.T cười cười “không biết” dù cách đó mấy phút em vừa mới đọc xong. Thầy Việt nhẹ nhàng “mình vừa đọc mà” rồi gắn vào vật cụ thể, bé T. à lên “chậu”. 45 phút chỉ để HS ghi nhớ 5 từ đơn giản và phải mất nhiều lần thầy trò phải nghỉ giữa chừng để chơi trò tung chai, giữ thăng bằng nhằm giúp cho HS tập trung chú ý.

HS của thầy Việt đã có khoảng 15 em học hòa nhập hoàn toàn tại các trường tiểu học, THCS. Như em L.V.H.Đ., theo học thầy Việt khi 5 tuổi, theo hồ sơ đánh giá cá nhân thì thời điểm đó em chưa có ngôn ngữ, lúc em nói, nhiều từ phải đệm thêm từ khác vào như “a quạt”, “a ca”, “a ba”. Sau khoảng 3 năm, H.Đ được chuyển đến học hòa nhập tại trường tiểu học bên ngoài.

Đảm nhiệm công tác đánh giá, giáo dục cá nhân, thầy Việt cho biết, mỗi một HS có một mức độ tiếp nhận, tính cách và thể trạng khác nhau nên giáo viên cũng phải có sự linh hoạt trong tổ chức, sử dụng phương pháp giảng dạy và phải xây dựng mục tiêu giáo dục dài hạn, ngắn hạn rồi chia nhỏ để “vừa hiệu quả vừa đỡ sốt ruột”.

Mong mỏi duy nhất của thầy giáo Nguyễn Xuân Việt là phụ huynh phối hợp tốt hơn với giáo viên, chịu khó trao đổi thông tin về HS để hỗ trợ cho giáo viên tốt nhất trong can thiệp, trị liệu tật cho trẻ. Nếu phụ huynh phối hợp tốt, hỗ trợ rèn luyện thêm cho con khi ở nhà thì trẻ càng sớm có những tiến bộ, cải thiện rõ rệt.

Thầy Việt tâm sự rất chân tình, rằng trẻ càng thiệt thòi thì mình càng phải yêu thương, chăm chút cho các em nhiều hơn. Trẻ em, lại là trẻ khuyết tật thì rất tinh ý, ai yêu thương, quan tâm các em thật lòng, các em đều biết cả. Và khi bé biết mình được thầy cô giáo dành trọn sự yêu thương, chăm chút thì giáo viên dễ kích thích được sự phát triển của trẻ.

HÀ TRẦN
 

;
;
.
.
.
.
.