Nguyễn Văn Xuân, nhà văn "đậm đặc chất Quảng"

.

ĐNĐT - Nhà thơ Thanh Thảo, trong bài Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Văn Xuân, gọi ông là người chuyên nghe “tiếng Quảng”. Nhà thơ đất Quảng Ngãi viết: “Tôi có may mắn quen nhiều người Quảng Nam, trong đó có những nhà văn nhà thơ. Nhưng đúng là tôi chưa thấy ai “đậm đặc chất Quảng” như nhà văn Nguyễn Văn Xuân”.

Nhà văn Sơn Nam và nhà văn Nguyễn Văn Xuân (từ trái qua) tại Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Dinh trấn Quảng Nam” tổ chức ở Tam Kỳ cuối tháng 8-2002. (Ảnh: V.T.L)
Nhà văn Sơn Nam và nhà văn Nguyễn Văn Xuân (từ trái qua) tại Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Dinh trấn Quảng Nam” tổ chức ở Tam Kỳ cuối tháng 8-2002. (Ảnh: V.T.L)

“Nhà Quảng học”

Nguyễn Văn Xuân sinh năm 1921 tại làng Thanh Chiêm, xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; qua đời vào lúc 21 giờ 30 ngày 4 tháng 7 năm 2007 tại Đà Nẵng. Ông là một học giả, nhà văn, nhà nghiên cứu.

Lúc nhỏ, ông học ở quê, sau ra học ở Huế. 16 tuổi, ông rời ghế nhà trường, bắt đầu tự học. 17 tuổi, ông viết cho tờ Bạn Dân (Hà Nội), truyện ngắn đầu tay Bóng tối và ánh sáng của ông được Tạp chí Thế giới (Hà Nội) trao giải nhất. 19 tuổi, ông cộng tác với Văn Lang (Sài Gòn) – tạp chí nổi tiếng lúc bấy giờ do Bác sĩ Hồ Tá Khanh làm chủ bút với sự góp mặt của các cây bút lớn như Phan Văn Hùm, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn.

Giai đoạn 1941 – 1945, ông viết cho Tiểu thuyết thứ Bảy (Hà Nội). Hai truyện ngắn Ngày giỗ cha (tháng 6-1943) và Ngày cuối năm trên đảo (1-1945) đưa tên tuổi ông vào danh sách thế hệ nhà văn trước 1945 đều xuất hiện trên tạp chí này.

Năm 1945 – 1954, ông tham gia phong trào cách mạng ở quê nhà, từng giữ chức Ủy viên kịch nghệ Hội Văn nghệ Quảng Nam, Ủy viên kịch nghệ Hội Văn nghệ Liên khu 5.

Sau năm 1954, ông ở lại Quảng Nam, tham gia hoạt động đấu tranh cho thống nhất đất nước, bị bắt giam ở lao Thừa Phủ (Huế) năm 1955. Thời gian này, ông cho ra đời tiểu thuyết Bão rừng sau gần 20 năm thai nghén, được xem là một trong những tiểu thuyết hiếm hoi đề cập đến việc khai thác thuộc địa qua các đồn điền Tây Nguyên của thực dân Pháp.

Ngoài nghề văn, nghiên cứu lịch sử, văn học, nghệ thuật tuồng, ông còn là một nhà giáo đã dạy học tại nhiều trường trung học, đại học. Thời gian giảng dạy tại Đại học Văn khoa Huế, ông đã phát hiện trong tủ sách một gia đình hoàng tộc Huế một bản Nôm của Phan Huy Ích dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Phát hiện của ông đã góp thêm tư liệu giúp học giả Hoàng Xuân Hãn khẳng định rằng dịch giả đích thực của tác phẩm nổi tiếng này là Phan Huy Ích chứ không phải Đoàn Thị Điểm.

Phong trào Duy tân là công trình biên khảo về phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX.
Phong trào Duy tân là công trình biên khảo về phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX.

Tác phẩm tâm huyết nhất của ông là Phong trào Duy tân (1969), được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quát và trọn vẹn về phong trào yêu nước chống Pháp đầu thế kỷ XX này. Phát xuất từ Quảng Nam, phong trào lan rộng ra khắp miền Trung rồi cả nước, gắn với tên tuổi của các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp... Một giai đoạn lịch sử đầy bi tráng đã được ông tái hiện trong tác phẩm biên khảo với kiến thức sâu sắc ông có được nhờ am hiểu Pháp văn và Hán Nôm.

Từ điển Văn học (Bộ mới, NXB Thế Giới, 2004) ghi nhận về ông: “Hầu hết tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân đều thể hiện một vốn kiến văn sâu rộng, một giọng văn giản dị hồn hậu, đậm đặc chất Quảng Nam, và đặc biệt, một tấm lòng yêu thương tha thiết đối với quê hương xứ Quảng”.

Năm 2010, NXB Xưa và Nay đã cho phát hành cuốn Nguyễn Văn Xuân - Một người Quảng Nam với nhiều bài viết của các tác giả đương thời. Trong sách này, nhà sử học Dương Trung Quốc gọi ông là “Nhà Quảng học” qua một bài viết cùng tít đề: “Nguyễn Văn Xuân là người học rộng, lại chuyên viết về xứ Quảng, nên gọi ông là nhà Quảng học hiểu theo nghĩa nào của chữ cũng đều đúng cả”.

GS. NGƯT Trần Hữu Tá, trong bài Nguyễn Văn Xuân - Người khơi dậy hồn xứ Quảng đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An ngày 6-10-2015, tỏ ý hơi ngạc nhiên khi thấy nhà sử học Dương Trung Quốc không gọi Nguyễn Văn Xuân là “nhà Quảng Nam học” như nhiều người mà trân trọng bớt đi một chữ: nhà Quảng học. Nhưng rồi, thoáng ngạc nhiên ấy nhanh chóng qua đi. GS Trần Hữu Tá viết: “Dương Trung Quốc rất có lý. Nguyễn Văn Xuân là con dân đất Quảng Nam, cả đời say mê viết về nơi chôn nhau cắt rốn, điều đó ai cũng thấy. Nhưng ông đã viết với một nội lực học thuật sung mãn, thành công trong nhiều phương diện lĩnh vực, thể loại khác nhau, khiến bất cứ ai đọc ông đều phải tâm phục khả năng “bác văn cường ký” (hiểu biết rộng, sức nhớ khỏe) của vị học giả này. Vì thế gọi là “nhà Quảng học” là đúng, vì bao gồm được cả hai đặc điểm, hai giá trị đó”.

Học giả uyên bác, nhà văn tài hoa

Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân đã được NXB Đà Nẵng ấn hành nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của nhà văn. Ảnh: V.T.L
Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân đã được NXB Đà Nẵng ấn hành nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của nhà văn. Ảnh: V.T.L

Nguyễn Văn Xuân bước vào văn đàn Việt Nam bằng hai chân: nhà văn và nhà nghiên cứu lịch sử. Sự nghiệp văn chương của ông mở ra và khép lại với hai tác phẩm đều đoạt các giải thưởng. Nếu tác phẩm đầu tay Bóng tối và ánh sáng (truyện ngắn, 1938) của ông được Tạp chí Thế giới (Hà Nội) trao giải nhất thì tác phẩm cuối cùng Kỳ nữ họ Tống (tiểu thuyết lịch sử, 2002) đoạt Giải A của Ủy ban Toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Giải A của Hội Liên hiệp VH-NT thành phố Đà Nẵng năm 2003.

Đạo diễn Nguyễn Hải Anh khi được lãnh đạo Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cử ra miền Trung làm phim về Hội An, đã đến thăm nhà văn Nguyễn Văn Xuân sau lời “mào đầu” của sếp: “Đây là con người hiếm có ở Việt Nam đấy, có gì tìm hiểu để có gì còn làm kịch bản phim nhé!”. Trò chuyện với “con người hiếm có” ấy, cô đạo diễn trẻ nhận ra ở ông “một kho tư liệu vĩ đại về miền đất Quảng Nam”. Bi kịch cuộc đời của ông với người vợ và cả bốn người con đều bị bệnh tâm thần đã để lại những câu hỏi lớn còn bị bỏ ngỏ...

Trước khi chia tay, ông vào giá sách lấy cho cô mượn 3 cuốn tiểu thuyết của ông và dặn đi dặn lại: “Thầy chỉ còn độc có 3 cuốn này thôi hỉ, con đọc rồi mang trả thầy ngày mai hỉ!”. Về khách sạn, cô rất mệt sau một ngày đường từ Sài Gòn ra nhưng không tài nào ngủ được vì câu chuyện buổi tối quá hưng phấn với người đàn ông mang bi kịch cuộc đời. Cô vớ đại một cuốn tiểu thuyết ông cho mượn với ý định đọc qua loa cho dễ... ngủ.

“Nhưng thật không ngờ từng câu từng chữ trong cuốn tiểu thuyết Hương máu, Bão rừng của ông đã hút mất hồn tôi cho đến tận 5 giờ sáng” – cô ghi lại trong “Người đàn ông đi ngược chiều gió”, bài cô viết về ông.

Chợp mắt được 1 tiếng, đúng 6 giờ, cô vùng dậy đi gõ cửa phòng gọi anh em trong đoàn phim xuống ăn sáng để kịp 8 giờ qua nhà ông quay phim - không kịch bản (vì kịch bản đã hình thành ngay trong đầu lúc cô đang đọc sách vào buổi đêm rồi). “Chúng tôi quay phim ông trong đúng 3 ngày. Quay tất cả những gì đang diễn ra, cả cảnh những đứa con tâm thần và bà vợ tâm thần của ông đi ra đi vào chấm bánh mì xuống đất ăn, cả cảnh con gà nhảy lên giá sách và những chồng sách cao chất ngất nhưng rêu phong bụi bậm mạng nhện chăng đầy...” – cô viết trong bài đã dẫn.

Phim tài liệu Thầy Nguyễn Văn Xuân có thời lượng 20 phút (có thể xem trực tuyến tại địa chỉ https://www.youtube.com/watch?v=ScMbMh28Vfk) được trao giải Cánh diều Bạc (không có Cánh diều Vàng) tại Liên hoan Phim Hội Điện ảnh Việt Nam năm 2001). Đây là phim tài liệu được giải đầu tiên trong đời của Nguyễn Hải Anh.

Nhà văn Ngô Thị Kim Cúc, một môn sinh của nhà văn Nguyễn Văn Xuân, trong bài viết Thầy Xuân của chúng tôi đã ghi lại cảm xúc của mình: “Hẳn Hải Anh cũng như rất nhiều người trẻ, khi gặp thầy đều nhận ra một điều lớn lao đơn giản: đây đúng là một Người Thầy, người cất giữ một kho tư liệu và khai phá một mạch văn hóa vô cùng giàu có, và luôn muốn được nối kết với thế hệ con cháu, muốn dâng tặng cho tương lai dân tộc”.

Điều gì tạo nên sức hút khiến cô đạo diễn trẻ “lao mình” vào làm phim Thầy Nguyễn Văn Xuân? Có thể tìm thấy câu trả lời trong bài đã dẫn của GS. NGƯT Trần Hữu Tá: “Cần nhấn mạnh một đặc điểm nữa của ngòi bút nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân: ngoài nội dung phong phú, xác thực, rất đáng tin cậy, ông còn có biệt tài làm người đọc say mê, cuốn hút như đọc tiểu thuyết.

Nhìn lại văn nghiệp của Nguyễn Văn Xuân, ta không khỏi ngạc nhiên, khâm phục vì sức sáng tạo dồi dào, của một học giả uyên bác đồng thời của một nhà văn tài hoa. Ông đã góp phần tích cực vào việc khơi dậy cái hồn của xứ Quảng – một bộ phận hữu cơ của Việt Nam hồn”.

Nguyễn Văn Xuân đã 10 năm đi xa nhưng những gì ông để lại vẫn còn gần gũi trong lòng những ai yêu mến ông.

Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Xuân

-Ngày giỗ cha (truyện ngắn, 1943);

-Ngày cuối năm trên đảo (truyện ngắn, 1945);

-Kẻ xu thời (kịch, 1945 – 1954);

-Một chuyện không tiện nói ra (kịch, 1945 – 1954);

-Bão rừng (tiểu thuyết, 1955);

-Dịch cát (tập truyện, 1956 – 1966);

-Khi những lưu dân trở lại (biên khảo, 1967);

-Hương máu (tập truyện ký, 1969);

-Phong trào Duy tân (biên khảo, 1969);

-Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc (khảo lục, 1971, thất lạc bản thảo)

VĂN THÀNH LÊ

Dưới đây là trích đoạn Hương Máu của nhà văn Nguyễn Văn Xuân:

Quả như lời viên đại tá, ông Hường có xuất hiện. Và hình như ông xuất hiện cốt để bị bắt chứ không thể để thực hiện một kế hoạch quân sự như viên đại tá hốt hoảng lầm tưởng. Ông tự để bị bắt trong một cái miếu giữa đường Hội An - Ðà Nẵng.

Trường hợp của ông thuộc “quân quốc trọng sự” nên phải tống giao ngay cho Viện Cơ mật và Tòa Khâm xét xử. Lính tập Hội An lập tức tăng cường việc canh gác. Người ta tíu tít đóng cũi - một cái cũi khá lớn - để giải ông và người con trai bị bắt trước ông. Cậu này mới khoảng mười lăm, mười sáu. Cả tỉnh đều xôn xao, bàn tán về biến cố quan trọng mà họ không chờ đợi này vì họ vẫn còn nuôi khá nhiều ảo vọng về ông.

Tối hôm giải ông ra Huế, ông Cử Lê gọi tôi vào mật phòng và trầm ngâm khá lâu trước khi bảo tôi:

- Cậu chắc hiểu được cái cảm tình sâu xa của thầy đối với ông Phan, ông Nguyễn. Bấy giờ, ông Nguyễn bị bắt như thế, thật là mối thương tâm, tuyệt vọng chung cho cả quốc dân. Nhưng thầy không muốn để Triều đình tra tấn ông và không muốn con người cao quý, anh hùng, cương trực nhường ấy, can đảm nhường ấy phải chết nhục dưới lưỡi gươm của tụi đao phủ hèn kém. Vậy, cậu hãy giúp thầy một việc...
Ông rút từ dưới gối một cái dùi nhọn, bén ngọt, dài chừng hơn một tấc, ở chuôi có cái cán bằng gỗ.

- Cậu hãy tùy nghi giao cái này cho ông để ông tự xử trên đường, khi cậu cùng đi ra Huế với ông.

- Con sẽ đi Huế 

- Cả thầy, thầy cũng đi mang hồ sơ theo. Nhưng nếu thầy lại gần tù xa thì không tiện vậy chỉ có cậu là lui tới dễ dàng theo sự điều khiển của thầy. Cậu cứ đưa và rủi có chuyện gì, thầy đã có cách.

Tôi lặng lẽ cất cái dùi nhọn trong mình. Trên đường đi, tôi chờ cơ hội thuận tiện. Kể ra cơ hội thuận tiện thật nhiều vì mọi công việc cung cấp thức ăn, nước uống... đều do ông Lê định đoạt. Nhưng tôi vẫn chờ một buổi nào đó mà hành động của tôi không thể bị tiết lộ.

Vào một bữa ăn tối, khi mấy người lính được ông Lê gọi lại để cho thuốc hút, tôi kẹp mũi dùi xuống dưới cái mâm gỗ đựng các thức ăn rồi mang lên cho ông Hường. Ông lơ đễnh đỡ cái mâm, không nhìn tôi. Tôi đằng hắng cốt để cho ông chú ý rồi đỡ cái mâm lên, đặt mũi dùi chạm tay ông.

Ông hiểu ý ngay, ngạc nhiên quay phắt sang nhìn tôi. Trái tim tôi đập thình thịch. Không hiểu vì tôi sợ quá, hãi hùng như chưa bao giờ, hay vì đó là lần đầu, sau ba năm trường ao ước mà không toại nguyện thì bất thần được sở nguyện: Ông nhìn tôi! Ông nhìn tôi! Nhưng chỉ một giây, hình như hiểu là không nên để lộ những tình cảm đáng nghi giữa hoàn cảnh này nên ông vội vàng nhận ngay mâm cơm, gật đầu ra vẻ cảm ơn, nhưng rõ ràng là để có cớ nhìn lại tôi.

Trong cái nhìn sau này, tôi bắt chợt đôi mắt dịu dàng trái ngược với lối nhìn xẳng xớm, nảy lửa thường ngày. Và trong cái ánh sáng của mắt đó, tôi nghe như ông ngầm báo là hình như ông đã nhận ra tôi, hình như có biết tôi là ai, đã gặp ở đâu rồi và ông rất tin cẩn tôi. Ôi nói làm sao cho hết những xúc động, những xao xuyến rờn rợn trên ót, dưới lòng bàn chân và trên da thịt tôi. Ba năm tranh đấu của tôi đâu phải vô ích. Nếu không có ba năm nằm gai nếm mật đó, làm sao giờ phút lớn lao này của lịch sử, tôi được vị anh hùng đó nhìn thông cảm bằng cái nhìn sâu tự đáy lòng.

Như thế, đâu có phải là cuộc sống sau này, về lâu về dài, tôi chẳng có cái gì để kể cho lũ con cháu nghe đâu! Khi ông ăn xong, tôi đến mang cái mâm đi. Ông vờ cầm cây quạt lông lên phe phẩy, úp liền xuống chỗ cái mâm mới đỡ lên rồi đưa tay sửa soạn lại cái khăn đen “chữ nhân” cho nghiêm chỉnh. Tôi bước đi và có cái cảm tưởng cái nhìn đó đang lượn ở phía sau.

Trong đêm ấy, nghĩa là suốt đoạn cuối cuộc hành trình ấy, tôi và ông Lê cùng hồi hộp chờ đợi một vụ án mạng, một vụ tự sát thảm khốc nhưng hết sức oanh liệt. Tôi có cái nôn nao vừa hãi hùng, vừa tự hào của người tạo dựng lịch sử.

Tôi chỉ chờ tiếng kêu tiếng thét để trở nên con người gắn liền với lịch sử. Nhưng lạ lùng và chẳng có việc gì xảy ra. Cuối cùng khi rời thuyền lên Viện Cơ mật, người ta bắt gặp cái dùi ấy từ cũi rớt ra ngoài... Người ta đoán là ông đã thủ cái dùi ấy từ trước, muốn dùng nó để tự sát như hầu hết các bậc phi thường trong tưởng tượng và bây giờ bị bại lộ, phải vứt ra ngoài. Lúc tôi mang chén nước lên cho ông lần cuối cùng, ông lại nhìn tôi và khẽ lắc đầu.

Sau này, tôi mới sực nhớ và hiểu tại sao không không tự sát. Quả tự sát là ngu muội hèn nhát, và phản bội. Ngày ở trên Tân Tỉnh, ông đã chuẩn bị cái chết này như một kế hoạch trọng đại vừa bảo toàn sinh mạng các đảng nhân, vừa biểu lộ ý chí cứu quốc công khai, chứ không phải là chọn cái chết hèn mọn, dễ dàng.

Chính ông Cử Lê sau này cũng thở dài hối hận đã tính một nước cờ trẻ con, đã đem cái chí mỏng cạn của kẻ phàm phu để so với tư tưởng cao cả của nhà lãnh tụ. Vì sau khi dự buổi xét xử tại Viện Cơ mật - buổi ấy tôi không được dự - ông Cử Lê đã nhận thức một cách đầy đủ về hành trạng của ông Hường.

Ông Cử Lê cho biết ông Hường đã khẳng khái nhận hết cả những việc ông và tất cả kẻ khác đã làm. Ông cho rằng lấy tư cách là quan phụ đạo của vua, bậc thầy cũ của vua không thể bỏ vua mà không dẫn dắt, lấy tư cách một vị phó bảng, tức là nhà nho ông không thể không đặt chữ trung lên trên và quyết phải sống chết vì giáo điều ấy, lấy tư cách là quan địa phương, ông phải bảo vệ và phải chết với địa phương đã được vua ủy nhiệm.

Như thế là ông thừa mệnh vua và bắt tất cả kẻ khác phải theo ông. Kẻ nào không theo, ông xử tử và đốt hết nhà cửa để răn chúng, thị chúng. Tất cả mọi người đều khiếp sợ mà theo, dầu không muốn theo cũng không được. Sau khi trình bày những lý lẽ chắc nịch ấy ông bằng lòng chịu chết vì trách cả trách nhiệm thuộc về ông và chỉ xin các quan là đừng theo dõi và hành hạ trả thù những kẻ khác vì họ chỉ bị động và họ đã quá đau khổ rồi.

Các quan lại ở triều đình nói cho đúng chỉ là bọn vô lý tưởng, chúa nào chúng thờ cũng được, thời nào chúng theo cũng xuôi. Chúng vốn ngầm sợ nhất là Nguyễn Hiệu. Nay bắt được Nguyễn Hiệu tức là phương Nam đã tạm bình định xong, chúng có thể yên tâm về mặt đó.

Chặt đầu Nguyễn Hiệu, đó là một thắng lợi quyết định, và người ấy đã tự nhận hết tội lỗi thì cũng đủ lắm rồi. Hơi đâu mà bới bèo ra bọ, không chừng rồi dân chúng lại nổi lên lung tung thì càng thêm khốn. Thế là bản án xử trảm đã lập thành.

Buổi sáng đưa ông ra pháp trường, người ta đặt ông vào một cái cũi khác, lớn hơn cái cũ. Ông ngồi trên một tấm cót tre, bên cạnh có bày sẵn hộp trầu, thuốc và theo yêu cầu của ông, cả một tờ giấy bạch và cây bút lông thượng hạng. Người con trai ông đã được đưa vào đề lao để chờ phát vãng làm lính ở Quảng Ngãi.

Dân chúng nghe tin bắt được đại thủ lĩnh “phiến loạn” và đem hành quyết thì từ nguồn chí biển đều đổ xô về tới tấp. Họ dàn sẵn từ sáng sớm trên con đường tù nhân sẽ đi qua với tất cả nghiêm trang của giờ lịch sử trọng đại. Họ chờ một con người như thế nào? Hình như vóc dáng, kích thước và tư thế một bậc anh hùng phải khác.

Vì ở đây, họ chỉ gặp một nhà nho tuấn tú, phương phi, trắng trẻo. Nhà nho đó không nhìn một ai, không một chú ý đến mọi động tĩnh chung quanh của đám dân chúng vốn quen ồn ào giờ bỗng trở nên im lặng, kính cẩn và nhiều kẻ khóe mắt rưng rưng... Ông đang lo nghĩ những vần thơ tuyệt bút và muôn vạn con mắt đều trố nhìn vào ngọn bút lông đứng sựng và thoăn thoắt chạy trên tờ giấy. Ðiều này khiến người ta phải nghĩ là ông lầm tưởng mình đang thảo hịch giữa buổi tinh sương chứ không phải làm thơ tuyệt mệnh trong khi đi đến pháp trường.

Tôi không cần tả lại dông dài cái giờ phút ông chấm dứt những bài thơ tuyệt bút để mỉm cười thọ hình. Nó cũng diễn ra theo cái truyền thống oanh oanh liệt liệt với nụ cười lặng lẽ của các chí sĩ Việt Nam. Cái chết không còn có tính cách bị chặt đầu một cách thảm hại mà cốt đạt cho được bốn chữ “trung dung tựu nghĩa” để gây một xúc động bất tuyệt trong lòng kẻ hậu sinh, cốt truyền tiếp một niềm tin tưởng không bao giờ dứt.

Lòng tin ấy quả không thể dứt được, nhất là khi tôi thấy nó trong đôi mắt ông Cử Lê hôm sau khi ở Viện Cơ mật về và ông bí mật gọi tôi vào phòng riêng. Ông vừa ứa nước mắt vừa mừng rỡ bảo tôi:

- Quả là vận nước còn may lắm, cậu ạ. Thầy có được xem tận mắt hai bài thơ tuyệt mệnh thi của Nguyễn đại nhân. Chà! Cậu mà được thấy cái nét chữ vững vàng cứng cỏi như viết bằng mũi đinh, mũi thép đó, cậu mới hiểu. Chữ viết đẹp một cách ngang tàng mà không tỏ ra chỗ nào ẩn một nét rối loạn. Tiếc quá!

Không biết làm sao cho cậu xem qua, liếc qua một chút thôi cũng được để cho cậu vững lòng tin vào vận nước còn tốt lắm! Tốt lắm! Nhưng mất cái nọ cậu lại được bù cái kia. Ðây, thầy thuộc lòng hết cả hai bài thơ, cậu lấy giấy bút để thầy đọc cho cậu chép. Nhớ lấy cây bút thầy mới mua và đừng run tay nghe.
Tôi đã chép hai bài thơ và tôi xúc động nhất khi nghe đọc tới bốn câu chót của bài thứ hai và cũng là bài cuối cùng:

Hàn sơn kỷ đắc cô tùng cán
Ðại hạ yên năng nhất mộc chi
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh
Trung thu minh nguyệt bạn ngô quy
(Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng
Nhà to, cột một khó ngăn ngừa
Về chầu liệt thánh lòng son đấy
Tháng Tám trăng rằm sẵn nhịp đưa
Huỳnh Thúc Kháng dịch)

Tôi có cảm tưởng thấy cây tùng cao vút mọc trên những dãy núi lạnh tôi từng đi qua, từng chiêm ngưỡng bỗng đỗ nhào xuống.

Ðêm ấy, tôi ngủ chiêm bao thấy hàng trăm kỵ sĩ rong ruổi khắp xóm làng tỉnh Quảng Nam mang theo những lá đại kỳ viết bằng chữ lớn, báo tin thủ lãnh phiến loạn dã chết.

Nhưng đột nhiên những kỹ sĩ rực rỡ sắc màu kia biến mất nhường chỗ cho những người gầy gò xanh xao. Họ chạy qua mặt tôi, lớn tiếng gọi tôi và vẫy tay. Tôi sửng sốt chạy lại thì thấy toàn những bộ mặt quen mà tôi đã gặp suốt ba năm trời ở núi rừng. Nhưng khi họ trưng thẳng lá cờ, tôi không thấy hung tín mà chỉ thấy một chữ “Tiệp” rất lớn. Rồi tôi lại thấy đoàn kỵ sĩ áo quần sặc sỡ hiện ra và tất cả cùng đua nhau chạy về phía sương mù.

NGUYỄN VĂN XUÂN

;
.
.
.
.
.