Bùi Giáng 20 năm "về chín suối đá vàng"

.

ĐNO - Đầu tháng 10 năm 1998, Bùi Giáng đang trên bước đường rong chơi quanh Sài Gòn thì bị ngã gây chấn thương sọ não. Dù được ê-kip bác sĩ Bệnh viện Chợ Rẫy tận tâm cứu chữa nhưng ông đã trút hơi thở cuối cùng vào 2 giờ chiều ngày 7-10-1998.

Thật lạ lùng, đó là năm Mậu Dần, đúng như ông đã dự cảm về cái chết của chính mình qua bài thơ “Trước khi lìa đời” chỉ 4 câu, trong đó có câu: “Mậu Dần mật thể thênh thang/ Ông về chín suối đá vàng chào con”.

Người có tác phẩm in kỷ lục

Một người gọi Bùi Giáng bằng ông nội bác và tấm chân dung tranh thêu ưng ý nhất của nhà thơ. Ảnh: VTL
Một người gọi Bùi Giáng bằng ông nội bác và tấm chân dung tranh thêu ưng ý nhất của nhà thơ. Ảnh: VTL

Bùi Giáng sinh ngày 17-12-1926 tại làng Thanh Châu, xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Là nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam, ngoài tên thật ông còn ký nhiều bút danh khác như: Trung niên Thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng... Thế nhưng, giới văn nghệ sĩ Sài Gòn vẫn gọi ông một cách trìu mến theo kiểu Nam Bộ là Sáu Giáng.

Bởi, người miền Nam gọi người con đầu trong gia đình là thứ hai, ông là người con thứ năm nên gọi tên thành thứ sáu. Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở đất Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Cha ông, do người vợ cả sớm qua đời nên lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền, ông là con đầu của bà Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ năm trong đại gia đình.

7 tuổi, ông bắt đầu đi học ở trường làng Thanh Châu. 10 tuổi xuống học trường Bảo An (vùng đất Gò Nổi, thị xã Điện Bàn ngày nay) với thầy Lê Trí Viễn. 13 tuổi ra Huế học tại Trường trung học tư thục Thuận Hóa. 

Năm 1944, ở lứa tuổi 18, Bùi Giáng cưới vợ, là bà Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp. Chỉ vài năm sau, bà bị bệnh phải sinh non và cả 2 mẹ con cùng chết. Phải chăng đây là một trong những lý do khiến Bùi Giáng bị điên từ lúc trẻ? Là lý do để trong thơ của ông sau này thường xuyên nhắc đến sự mất mát, chia ly, gợi nhớ về một hình bóng cũ, như những dòng thơ ghi trên bia mộ của ông: “Đùa với gió, rỡn với vân/ Một mình nhớ mãi gái trần gian xa/ Sương buổi sớm, nắng chiều tà/ Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu?".

Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh. Năm sau, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu 5 tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, ông quyết định bỏ học, quay về quê nhà, bắt đầu quãng đời “Mười năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt”.

T. Khuê, tác giả mục từ “Bùi Giáng” ở các trang 162-163 của Từ điển Văn học Bộ mới (NXB Thế Giới, 2004), viết về ông: “... tháng Năm 1952, Bùi Giáng tạm nghỉ ‘chăn dê’ để về Huế thi Tú tài tương đương và vào Sài Gòn ghi danh Đại học Văn khoa.

Sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy, ông quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục”.

Từ năm 1957, ông lần lượt cho ra đời nhiều cuốn sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm... Giai đoạn sáng tác đỉnh điểm trong văn nghiệp của Bùi Giáng bắt đầu từ năm 1962, khi ông liên tục cho ra đời nhiều đầu sách, mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Nội trong một ngày, ông có thể viết xong đến vài trăm trang sách. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài.

Sau năm 1975, ông vẫn tiếp tục sáng tác rất nhiều thơ, nhưng thời gian này ông có biểu hiện bệnh tâm thần nặng. Ông thường rong chơi nghịch ngợm ngoài đường với bộ đồ rách rưới, dơ dáy, nhiều lần bị công an bắt vì gây rối trật tự, cản trở giao thông. Và, trong một lần rong chơi nghịch ngợm, ông bị tai nạn và về chín suối đá vàng đúng 20 năm trước.

Hay chữ và lắm ngông

Bùi Giáng viết rất nhiều. Trong khối lượng sách kỷ lục của ông, có thể tạm phân ra mấy thể loại.

Về thơ, xuất bản đầu tay là Mưa nguồn (1962), tập thơ đã làm cho tiếng tăm Bùi Giáng lừng lẫy ngay sau khi được in thành sách; bản in cuối cùng là Mùa màng tháng tư (2007), xuất bản sau khi ông qua đời.

Chân dung Bùi Giáng trên bìa tác phẩm thơ được in sách đầu tiên của ông. Nguồn: Internet
Chân dung Bùi Giáng trên bìa tác phẩm thơ được in sách đầu tiên của ông. Nguồn: Internet

Về nhận định, gồm những sách xuất bản trong năm 1957, nhận xét về các tác giả, tác phẩm như: Bà Huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm, Quan Âm Thị Kính, Truyện Kiều... Về giảng luận, có 4 cuốn giảng luận về các tác giả Tản Đà-Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị.

Về Triết học, có 4 cuốn thì ông dành 2 cuốn viết về Martin Heidgger (1889 - 1976), triết gia Đức chủ trương học thuyết Bản thể luận mang tên ông, là học thuyết về tồn tại con người, về cấu trúc của tồn tại con người. Về tạp văn, ông có nhiều tác phẩm trải dài qua các năm từ 1969 đến 1971.

Về sách dịch, ông dành tâm huyết cho thể loại này, trong đó có tác phẩm Hoàng tử Bé (tên tiếng Pháp: Le Petit Prince, xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Antoine de Saint-Exupéry). Bùi Giáng cho in bản dịch tiểu thuyết của nhà văn và phi công Pháp này (Nhà xuất bản An Tiêm, Sài Gòn 1973, tái bản 2005) và gọi đây là “tác phẩm thơ mộng nhất và u uẩn nhất trong những tác phẩm của Saint-Exupéry”.

Ngoài ra, có thể nói Bùi Giáng cũng gián tiếp tham gia lĩnh vực âm nhạc. Bởi lẽ, năm 1965, khi nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác ca khúc “Mùa thu chết” đã dựa vào lời thơ của Bùi Giáng dịch bài “L’Adieu” (Lời vĩnh biệt), nguyên tác của Guillaume Apollinaire - nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình nghệ thuật Pháp gốc Ba Lan, một trong những nhà thơ lớn của Pháp đầu thế kỷ XX.

T. Khuê viết về Bùi Giáng trong sách đã dẫn: “Chuyện hạ bút thành thơ của ông được xác định như là một hiện tượng độc đáo… Tuy nhiên, bi kịch của Bùi Giáng là ông lặp lại chính mình, ngay cả trong thơ, cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa...

Nhưng dù sao chăng nữa, ông cũng đã tạo được một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ XX, khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ XIX hoặc Tản Đà ở đầu thế kỷ XX”.

Bi kịch của Bùi Giáng, dưới cái nhìn của nhà văn Nguyễn Đình Toàn trong bài “Bùi Giáng - Một bài thơ lạc vận”: “Ông không khóc nhưng hình như thơ ông có nước mắt. Ông cười cợt khi nói lời nghiêm trang. Ông nói với chính mình nhiều hơn với người khác”.

Bùi thi sĩ lúc sinh thời vốn đã gieo vào nhân gian những cái nhìn không đồng nhất, sau khi qua đời lại “thách đố” mọi người tiệm cận với bản lai diện mục của ông. Bởi ở ông là tập hợp của nhiều trạng thái bất khả tư nghị - bỡn cợt đến đớn đau, nghiêm chỉnh hóa điên rồ, ngông nghênh mà tinh quái...

Bùi Giáng ngông nghênh. Bùi Giáng nửa điên nửa tỉnh. Bùi Giáng chán đời... Bùi Giáng độc thoại giữa buổi trưa hè oi ả của đời mình: "Tôi cười tôi khóc bâng quơ. Người nghe người khóc có ngờ chi không" (Bao giờ).

5 năm trước, sáng ngày 14-9-2013, Tọa đàm khoa học đầu tiên về thi sĩ Bùi Giáng được khai mạc tại Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng lần đầu tiên, bài thơ 4 câu mà Bùi Giáng “tiên tri” về cái chết của mình được giới thiệu tại tọa đàm: “Ông từ viễn mộng tương lai/ Về trong hiện tại ngàn mai giậy giàng/ Mậu Dần mật thể thênh thang/ Ông về chín suối đá vàng chào con”.

Dưới chữ ký của mình trong bài thơ có tựa là “Ông chào các con” này, ông ghi thêm 4 chữ “Trước khi lìa đời”. Vậy là Bùi Giáng đã đi xa 20 năm nhưng tiếng cười tiếng khóc tưởng chừng bâng quơ của ông vẫn còn lại vọng nhân gian cùng với nỗi niềm ẩn khuất…

Bốn câu thơ Bùi Giáng dự cảm về cái chết của chính mình. Nguồn: Internet
Bốn câu thơ Bùi Giáng dự cảm về cái chết của chính mình. Nguồn: Internet

VĂN THÀNH LÊ

Một số bài thơ tiêu biểu của Bùi Giáng

Chào nguyên xuân

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu

Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân

Phụng hiến

Con có nghĩ: ắt là phải thế
Một đôi lần con ghì siết hai tay
Nàng thơ đẹp của trần gian ứa lệ
Bảo con rằng: hãy nhớ lấy phút giây

Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu

Cây và cối bầu trời và mặt đất
Đã nhìn tôi dưới sương sớm trăng khuya
Mở buồng phổi đón gió bay bát ngát
Dừng bên sông bến cát buổi chia lìa

Hoàng hôn xuống, bình minh lên nhịp nhịp
Ngàn sao xanh lùi bước trước vừng hồng
Ngày rực rỡ đêm êm đềm kế tiếp
Đón chào tôi chung cười khóc bao lần

Tôi đã gửi hồn tôi biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hối những chờ mong

Sông trắng quá bảo lòng tôi mở cửa
Trăng vàng sao giục cánh mộng tung ngần
Gió thổi giậy lùa mơ vào bốn phía
Ba phương trời chung gục khóc đêm giông

Những giòng lệ tuôn mấy lần khắc khoải
Những nụ cười tròn mấy bận hân hoan
Những ngoảnh mặt im lìm trong ái ngại
Những bắt tay xao động với muôn vàn

Những người bạn xem tôi như ruột thịt
Những người em dâng hết dạ cho tôi
Những người bạn xem tôi là cà gật
Những người em không vẹn nghĩa mất rồi

Trần gian hỡi? tôi đã về đây sống
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than
Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng
Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen

Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức
Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt
Tôi đui mù cho thoả dạ yêu em

Tôi tự nguyện sẽ một lần chung thuỷ
Qua những lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương máu đã đành là uỷ mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh

Em đứng mũi anh chịu sào có vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương

Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn

Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng chân cao

Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi

Đêm ứa lệ phồng mi hai mắt
Bàn tay ta nhỏ như lá cây khô
Mình hoa rã đầm đìa sương theo móc
Đỡ làm sao những cánh tiếp nhau rơi

Ta gửi lại đây những lời áo não
Những lời yêu thương phụng hiến cho em
Rồi ta gục đầu trên trang giấy hão
Em bảo rằng
– Đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thắm lại với trời hồng

Thương em

Thương em thương nhớ những ngày
Nhớ em như thể nhớ hoài mai sau
Nhớ em muôn một mộng đầu
Mà em nhớ mãi mối sầu tương lai
Cậy em cậy suốt dặm dài
Tận cùng khổ cực đắng cay cầm bằng
Yêu em có thể bảo rằng
Yêu là rất mực hằng hằng không yêu

Trăm năm tắm gội

Trăm năm tắm gội dưới trời
Ngày thì tắm nắng tối rồi tắm trăng
Nhớ em tắm với chị Hằng
Tận cùng tắm với ngọn đèn cô đơn

BÙI GIÁNG
 

;
.
.
.
.
.
.