.

60 năm nhìn lại Hiệp định Genève

.

Cách đây 60 năm, lúc thời gian thực tế đã trôi qua khỏi kim đồng hồ chỉ 24 giờ đêm 20-7-1954 tại Hội nghị Genève (Thụy Sĩ) từ 1 giờ đến 2 giờ 45 phút, Hiệp định (HĐ) về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được đại diện của Pháp và Việt Nam đồng ký kết.

Đại diện của Pháp là Brigadier-General Delteil và đại diện của Việt Nam là Tạ Quang Bửu ký Hiệp định về đình chỉ chiến sự tại Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
Đại diện của Pháp là Brigadier-General Delteil và đại diện của Việt Nam là Tạ Quang Bửu ký Hiệp định về đình chỉ chiến sự tại Việt Nam. (Ảnh tư liệu)

Bước thắng lợi của lực lượng kháng chiến ở 3 nước Đông Dương

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược lần thứ hai (1945-1954), nhân dân 3 nước Đông Dương dưới sự lãnh đạo của các chính phủ kháng chiến Việt Nam, Lào (Pathet Lào), Campuchia (Khmer Issarak) đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, liên tục vươn lên giành lấy những thắng lợi quan trọng. Đặc biệt, với thắng lợi trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam, tương quan lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về phe kháng chiến 3 nước, đẩy thực dân Pháp vào tình thế bế tắc và đe dọa sự tồn vong của toàn bộ hệ thống thuộc địa của Pháp.

Bên cạnh đó, phong trào phản chiến tại Pháp chống cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương bùng phát dữ dội, khiến Chính quyền Pháp ngày càng chia rẽ trước những khó khăn nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội mà nước Pháp đang hứng chịu. Vì thế, đầu năm 1954, Pháp đã đồng tình cùng Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô triệu tập một hội nghị quốc tế ở Genève (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương, nhằm đạt được một cuộc đình chiến hòng cứu vãn thế nguy cho quân đội viễn chinh Pháp, chia cắt Việt Nam, duy trì thuộc địa ở Đông Dương.

Hội nghị Genève khai mạc vào 26-4-1954 bàn về vấn đề Triều Tiên trước, nhưng trải qua 12 ngày vẫn không có kết quả. Sau khi Việt Nam giành chiến thắng ở Điện Biên Phủ, ngày 8-5-1954 hội nghị chuyển sang bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Tham dự hội nghị chính thức có 9 phái đoàn gồm Anh, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc), Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Quốc gia Việt Nam (QGVN), Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia, do Liên Xô và Anh làm đồng chủ tịch hội nghị. Hai phái đoàn Pathet Lào và Khmer Issarak không được công nhận tư cách đại biểu và chỉ do VNDCCH đại diện trình bày nguyện vọng trước hội nghị.

Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp riêng rất căng thẳng, HĐ Genève về Đông Dương cuối cùng đã được ký kết vào rạng sáng 21-7-1954. Các văn bản HĐ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam; Lào; Campuchia và “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève về lập lại hòa bình ở Đông Dương” là bộ khung pháp lý chính của HĐ Genève. Ngoài ra, còn có hai bản tuyên bố riêng của Hoa Kỳ và Pháp tại Hội nghị Genève trong cùng ngày.

Với 6 chương, 47 điều trong “HĐ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” và 13 điểm trong “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève về lập lại hòa bình ở Đông Dương”, HĐ Genève quy định các nước tham dự hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước; các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương; cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào Đông Dương và nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự tại Đông Dương. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết, chính quyền và quân đội VNDCCH tập trung ra miền Bắc, chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. Các bên tham chiến thực hiện chuyển quân, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và dân chúng có quyền di cư trong thời gian tập kết; hai bên sẽ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7-1956…

HĐ Genève là thắng lợi lớn lao trên mặt trận ngoại giao của Việt Nam, góp phần hỗ trợ và khẳng định những thắng lợi quyết định trong đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, giải phóng được miền Bắc, làm hậu thuẫn vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai và HĐ Genève năm 1954 đã đánh dấu một bước thắng lợi của lực lượng kháng chiến ở 3 nước Đông Dương, góp phần quan trọng mở ra sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp, tạo nên tác động dây chuyền làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên toàn thế giới.

Giới tuyến tạm thời trở thành ranh giới chia cắt

Tuy nhiên, nếu xem xét khả năng đạt được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường vào tháng 7-1954, có thể thấy rõ những giải pháp trong HĐ Genève đã ngăn cản đà thắng lợi của nhân dân Việt Nam và Đông Dương, làm giảm thiểu những ưu thế to lớn về quân sự, chính trị và quyền kiểm soát lãnh thổ mà phe kháng chiến đã giành được trong thực tế.

Nước CHND Trung Hoa được thành lập cuối năm 1949, trong bối cảnh thế giới hình thành hai hệ thống đối lập về chính trị, kinh tế và quân sự, với cuộc chiến tranh lạnh đang bắt đầu ở châu Âu và hai cuộc chiến tranh khu vực ở Triều Tiên và Đông Dương tại châu Á. Để bảo vệ mình trước hệ thống đối lập, lãnh đạo Trung Quốc đã chấp thuận tiến tới một cuộc ngừng bắn ở Triều Tiên vào năm 1953, duy trì nguyên trạng, chia cắt lâu dài Triều Tiên để có một khu đệm phía đông bắc. Còn ở phía đông nam, Trung Quốc cũng tạo nên một khu đệm khác bằng việc công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH năm 1950, viện trợ vũ khí, trang bị quân sự cho Việt Nam chống Pháp, ngăn chặn Hoa Kỳ thay thế Pháp ở Đông Dương để tránh sự đối đầu trực tiếp.

Mặc dù Trung Quốc đang thù địch với Hoa Kỳ, chưa có quan hệ ngoại giao với Pháp, và vị trí của một trong năm Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc còn do Trung Hoa Dân Quốc nắm giữ; nhưng với những suy tính đó, lãnh đạo Trung Quốc đã xem Hội nghị Genève là cơ hội để cùng các nước lớn bàn bạc và thỏa thuận các vấn đề quốc tế có lợi cho mình. Cho nên, Trung Quốc muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương bằng một giải pháp theo kiểu Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự bằng chia cắt đất nước mà không có giải pháp chính trị. Mong muốn của Trung Quốc rất phù hợp với lập trường của Pháp, dù hai nước có mục đích không giống nhau.

Như thế, rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam tại hội nghị, vì mục tiêu của Việt Nam là tiến tới một giải pháp hoàn chỉnh, bao gồm đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và  vấn đề Campuchia, trên cơ sở các bên tham gia phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

Sau khi các nước lớn đã đạt được thỏa thuận ngầm về những vấn đề cơ bản, từ 23-6-1954, Pháp tiến hành đàm phán trực tiếp với Việt Nam để giải quyết các vấn đề cụ thể. Phía Việt Nam luôn kiên trì giữ vững lập trường 8 điểm của mình, chủ trương đòi có đại biểu của Pathet Lào và Khmer Issarak tham gia như các bên đàm phán, định giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam là vĩ tuyến 13, ở Lào có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến tại Thượng Lào và Trung - Hạ Lào, ở Campuchia có hai vùng tập kết của lực lượng kháng chiến ở phía đông-đông bắc sông Mê Kông và phía tây-nam sông Mê Kông, tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất trong mỗi nước thời hạn 6 tháng…

Quá trình hội nghị trong giai đoạn cuối diễn ra hết sức gay cấn, bởi Pháp đưa ra nhiều vấn đề cụ thể ngược lại với Việt Nam. Đặc biệt, bất chấp Việt Nam đã kiểm soát gần 2/3 lãnh thổ trong thực tế, Pháp vẫn yêu sách giới tuyến quân sự tạm thời tại Việt Nam ở tận vĩ tuyến 18. Trong cuộc đàm phán giữa các bên, Trung Quốc giờ đây lại giữ vai trò thúc đẩy phía Việt Nam nhân nhượng, đặc biệt từ ngày 10-7-1954, Trung Quốc ngày càng thúc ép Việt Nam chịu thiệt thòi. Họ yêu cầu Việt Nam đưa những điều kiện công bằng và hợp lý để Chính phủ Pháp có thể chấp nhận được để đi đến HĐ. Họ cho rằng điều kiện đưa ra nên giản đơn, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán khiến Hoa Kỳ có lý do phá hoại!

Trước những thỏa hiệp giữa Pháp với Trung Quốc về một giải pháp khung cho Đông Dương, Hoa Kỳ đã đưa Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Chính phủ QGVN từ 13-6-1954, và chấp nhận HĐ theo hướng không tham gia vào bản Tuyên bố cuối cùng của hội nghị, để được rảnh tay sau này có thể vi phạm HĐ Genève thông qua chính quyền họ Ngô, buộc Pháp phải rút lui để Hoa Kỳ thay thế. Vương quốc Anh thì không muốn dính líu đến chiến tranh Đông Dương, nhưng ở thế đồng minh với Hoa Kỳ và Pháp, nên cũng chủ trương ủng hộ Pháp đàm phán trên thế mạnh. Còn mục tiêu của Liên Xô là khoanh vùng chiến tranh Đông Dương để giảm nguy cơ phương Tây đoàn kết ủng hộ Hoa Kỳ và buộc Liên Xô phải cam kết bảo vệ Trung Quốc, đồng thời để nâng đỡ vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế và tạo dựng hình ảnh là người bảo vệ hòa bình thế giới, nên cũng ủng hộ sự bắt tay giữa Trung Quốc và Pháp.

Giải pháp mà Trung Quốc đã thỏa hiệp với Pháp và được các nước lớn đồng tình đã đi ngược lại những yêu cầu chính trị của Việt Nam. Tuy nhiên, trong xu thế giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng hòa bình và lâm vào tình thế bị Trung Quốc ép buộc, các nước lớn cả hai phía đều thỏa hiệp nhau, nên Việt Nam đã phải chấp nhận ký kết HĐ với Pháp.

Sau khi Hiệp định  Genève được ký kết, ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ra Lời kêu gọi, trong đó nhấn mạnh: “Chúng ta phải ra sức phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc…”. Sau khi giới tuyến tạm thời trở thành ranh giới chia cắt, nước ta đã  bước vào cuộc chiến đấu anh dũng suốt 20 năm, cho tới ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Tổng quan về tiến trình ký kết Hiệp định Genève

Hội nghị Genève 1954 về hòa bình ở Việt Nam, Đông Dương khai mạc ngày 8-5-1954 và kết thúc vào ngày 21-7-1954; có 9 bên tham dự là Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Trải qua 75 ngày đàm phán gay go, căng thẳng với 31 phiên họp cùng rất nhiều cuộc gặp, tiếp xúc song phương và đa phương, cuối cùng các bên tham gia Hội nghị (trừ Mỹ) đã thỏa thuận và ký kết các văn bản. Hội nghị đã đạt được thỏa thuận chung cho 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia là: công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước; Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương.

Những thỏa thuận đạt được của Hiệp định về Việt Nam, gồm: Ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong 300 ngày, chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng; Lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải),  không coi vĩ tuyến 17 là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam; Hiệp thương hai miền vào tháng 7-1955, tổng tuyển cử tháng 7-1956, tự do chọn vùng sinh sống trong khi chờ đợi…

H.N (tổng hợp)

NGUYỄN QUANG TRUNG TIẾN

;
.
.
.
.
.