.
40 năm Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không (12-1972 - 12-2012)

Hà Nội kiên cường hạ gục B.52 (Tiếp theo)

Lấy chính nghĩa thắng hung tàn

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là sự hợp thành của nhiều yếu tố trong chiến lược quân sự cách mạng Việt Nam, có nhiều nguyên nhân, trong đó có 4 nguyên nhân cơ bản.

Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Trung ương Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương.

Sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tập trung cho kháng chiến thắng lợi.

Trong cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ miền Bắc, ngay từ đầu, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận định tình hình, đưa ra chủ trương quyết tâm đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tạo niềm tin, củng cố ý chí chiến đấu cho quân và dân ta. Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương luôn chủ động về chiến lược, chiến dịch; dự báo, đánh giá đúng tình hình, nghiên cứu nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của địch, đã kịp thời tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt mọi công tác chuẩn bị và đối phó thắng lợi trước mọi tình huống của chiến tranh.

Hai là, quân và dân ta đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm, kiên cường, sáng tạo, quyết đánh, biết đánh và quyết thắng kẻ thù.

Sức mạnh chính trị tinh thần trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng đường không trước hết biểu hiện ở tinh thần dám đánh, biết đánh và quyết thắng, ở lòng tin và quyết tâm đánh thắng trận đầu, bắn máy bay địch rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái, tạo niềm tin đánh bại hoàn toàn mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Kẻ thù luôn dùng sức mạnh tác chiến bằng vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại, ngược lại, ta lấy yếu tố con người với nghị lực chiến đấu phi thường và sức mạnh sáng tạo, trình độ cao về nghệ thuật tác chiến, cùng với vũ khí trang bị để giành thắng lợi, với phương châm: “Người trước - súng sau”. Đồng thời, quân và dân miền Nam anh dũng tiến lên, “chia lửa” với đồng bào miền Bắc; đẩy mạnh tiến công quân Mỹ - ngụy, triển khai lực lượng, tổ chức chiến đấu trên khắp chiến trường miền Nam.

Ba là, quân và dân ta đã mưu trí, sáng tạo, tìm được cách đánh B.52.

Để chiến thắng được B.52 phải có sức mạnh tổng hợp của sự lãnh đạo, trí tuệ và bản lĩnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó, yếu tố rất quan trọng là tìm được cách đánh B.52 - vấn đề được cả thế giới quan tâm, vì B.52 là “niềm tự hào”, là “thần tượng” của không lực Hoa Kỳ. Cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có lực lượng nào bắn rơi B.52 (trừ ở Việt Nam).

Để đánh được B.52, phải chủ động chuẩn bị trước về lực lượng, phương tiện vũ khí và cách đánh. Ta đã tổ chức lực lượng trực tiếp đối đầu với B.52 từ tháng 5-1966, vừa trực tiếp đánh trả vừa nghiên cứu cách đánh B.52. Quân và dân ta đã nghiên cứu phát hiện điểm mạnh, yếu của địch, bảo đảm vũ khí nào cũng phát huy tác dụng, lực lượng nào cũng có thể hạ máy bay địch, kể cả dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, kết hợp tiêu diệt, khống chế máy bay chiến thuật hộ tống, tạo điều kiện cho Bộ đội tên lửa và Không quân bắn hạ B.52.

Bốn là, sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn quốc tế và nhân loại tiến bộ là một trong những yếu tố rất quan trọng để làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

Chiến dịch Liner Becker II bị phản đối mạnh mẽ trên khắp thế giới. Nhân dân các nước XHCN đứng về phía Việt Nam, lên án các cuộc ném bom của đế quốc Mỹ. Ở nhiều nước phương Tây, chính phủ và báo chí cũng lên tiếng chỉ trích hành động của đế quốc Mỹ. Tòa án lương tri quốc tế cũng được lập ra để xét xử các tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ tại Việt Nam, đã có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ lương tri tiến bộ trên thế giới phản đối cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ, cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Ngay tại Mỹ, nhân dân tiến bộ cũng đòi Chính phủ chấm dứt ném bom ở miền Bắc Việt Nam.

Các nước XHCN như: Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba… và bạn bè trên thế giới đều thể hiện sự bất bình trước những cuộc không kích của không quân Mỹ vào miền Bắc Việt Nam.

(Còn nữa)

N.T (Tổng hợp theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương)

;
.
.
.
.
.