Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay công bố các diễn biến thực địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Tàu Trung Quốc tìm cách ngăn cản tàu chấp pháp Việt Nam (Ảnh:TTXVN) |
Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng.
Sự kiện thu hút sự quan tâm của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.
Sau cuộc họp báo quốc tế ngày 7-5 về việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam, dù Việt Nam luôn thiện chí, nỗ lực dùng mọi bp hòa bình, phía Trung Quốc vẫn duy trì gia tăng số tàu, uy hiếp đe dọa lực lượng thực thi pháp luật Việt Nam. Trung Quốc liên tục vu cáo, đổ lỗi cho Việt Nam và đưa ra luận điệu sai trái về cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc. Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền bởi chủ quyền đất nước hết sức thiêng liêng, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên ngoại giao Việt Nam cho biết.
Ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam từ nhiều cấp, nhiều hình thức, mọi thiện chí của Việt Nam không được đáp ứng.
Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
"Từ thế kỷ 17, hai quần đảo còn là đất vô chủ, đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chính phủ Pháp thay nhà nước Việt Nam quản lý hai quần đảo. Chủ quyền cũng được khẳng định tại hội nghị San Francisco, khi phái đoàn Liên Xô đề nghị trao hai quần đảo cho Trung Quốc nhưng 46 nước phản đối. Trung Quốc là nước tham gia hội nghị quốc tế này nên đã hiểu rõ và cần phải thực thi", ông Hải công bố tư liệu.
"Năm 1974, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ một quốc gia có chủ quyền là phi pháp, không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa".
Điểm thứ hai, về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Hải phân tích văn bản này không đề cập đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và điều đó phù hợp với thực tế lịch sử. Các quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa do Pháp chuyển giao năm 1956 phù hợp với Hiệp định Geneva.
Ông Trần Duy Hải cho biết Việt Nam luôn tôn trọng vùng 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Tuy nhiên, công thư không đề cập đến chủ quyền lãnh thổ hay vấn đề Hoàng Sa, do đó, công thư không có giá trị pháp lý.
Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam cộng hòa, theo hợp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.
"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc", ông Hải khẳng định.
Cung cấp thông tin về hoạt động khai thác dầu khí, ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), hoạt động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc tế công nhận.
"Các đối tác nước ngoài đều hoạt động bình thường từ rất lâu. Chúng tôi phản đối các hành động của Trung Quốc", ông Hậu nói.
Về khả năng Việt Nam có thể sẽ sử dụng hành động pháp lý trước tình hình hiện tại, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.
"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.
"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào, chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp có thể sử dụng được", bà nói thêm.
Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.
"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.
Theo các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các cuộc gây rối ở Hà Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các đối tượng xấu gây xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.
Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở về bình thường, ổn định
"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như vừa qua", ông Bình cho biết.
"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
Đấu tranh ngoại giao và thực địa
Ngày 1-5, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam 80 hải lý, phía nam quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Để thực hiện cái gọi là bảo vệ giàn khoan, Trung Quốc đã huy động lượng máy bay và tàu lên đến cả trăm chiếc, đỉnh điểm có ngày lên tới 134 tàu. Những tàu này thường có hành động hung hăng ngăn cản, phun vòi rồng vào các tàu chấp pháp của Việt Nam đang thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền.
Chính phủ Việt Nam đã 20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.
Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11-5 tại Myanmar, Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới.
Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh hôm 20-5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi khu vực.
Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của ta vẫn kiên trì đấu tranh hòa bình, triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Ông Đỗ Văn Hậu, Tổng Giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN): Chúng tôi không có bất cứ lô dầu khí nào nằm ngoài vùng 200 hải lý thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được quốc tế công nhận. Khu vực Trung Quốc nói có tranh chấp là Đông Nam, gọi là bãi Tư Chính 0- Vũng Mây, khu vực miền Trung Việt Nam, khu vực Hoàng Sa. Vùng Hoàng Sa chính quyền miền Nam đã khảo sát địa chấn, gần đây chúng tôi tiếp tục khảo sát ở đây. Việc khảo sát được tiến hành tích cực. Trước đây, chúng tôi có thăm dò ngoài khu vực đường 200 hải lý, nhưng đó là trước khi Việt Nam phê chuẩn công ước quốc tế về luật biển. Sau khi Việt Nam phê chuẩn, Việt Nam đã tuân thủ nghiêm túc. Các hoạt động dầu khí ở miền Trung, nơi Trung Quốc qua công ty CNOOC gọi thầu, chúng tôi vẫn tiến hành khảo sát. Đến nay, không có công ty quốc tế nào ký với Trung Quốc thầu 9 lô kể trên. Hoạt động dầu khí của PVN đang triển khai bình thường, phù hợp với Luật biển 1982. Chúng tôi trước nay đều công bố công khai mà không có bất kỳ cản trở, phản đối nào.Điều này chứng tỏ Trung Quốc nói 57 lô VN phân đang nằm trong vùng tranh chấp là hoàn toàn sai trái. |
VNE/TTO