Kể từ Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn bó với mảnh đất Hà Nội. Ngày 26-8-1945, Người từ Chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nhân dân ta vừa bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế ở miền Bắc và tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà thì đế quốc Mỹ leo thang ném bom phá hoại miền Bắc xã hội chủ nghĩa ngày càng ác liệt, nhằm ngăn cản sự chi viện của tiền tuyến lớn miền Bắc cho hậu phương lớn miền Nam.
Ngay trong những tháng năm chiến tranh ác liệt dưới bom đạn Mỹ, Bác Hồ kính yêu vẫn hằng ngày chăm cá, chăm cây, vui với các cháu thiếu nhi và bàn việc nước bên ngôi nhà sàn giản dị trong vườn cây trái sum suê ở giữa lòng Thủ đô yêu dấu… Rồi cũng ở Hà Nội, Bác Hồ đã viết những dòng Di chúc trước lúc đi xa, để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, cho dân tộc Việt Nam. Những ngày đầu tháng 9-1969, Bác Hồ đã trút hơi thở cuối cùng; trời Hà Nội mưa tầm tã như hòa cùng nỗi đau của người dân Việt Nam.
Như vậy, có thể nói, tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh hầu hết được thể hiện ở mảnh đất kinh đô ngàn năm văn vật. Và không chỉ có vậy, Bác Hồ còn thể hiện tấm lòng trân trọng biết ơn, mối quan tâm sâu sắc đầy tình nhân ái và những mong muốn thiết tha về Hà Nội, với Hà Nội.
Kể từ khi giữ cương vị Chủ tịch nước, Người đã có 73 bài viết riêng về Hà Nội, về nhân dân Hà Nội (theo sách Hồ Chí Minh với Thủ đô Hà Nội - NXB Chính trị quốc gia, 2004).
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt tới nhân dân Hà Nội, đặc biệt là Bác Hồ rất chú ý tới nhân dân ngoại thành Hà Nội. Có thể là khi đó người dân ngoại thành Hà Nội còn vất vả nên Người dành mối quan tâm sâu sắc hơn. Người động viên: “Ngoại thành cũng là Thủ đô. Mà “thủ” là đầu, phải đi đầu...” và mong muốn: “Các Đảng bộ, chi bộ ở ngoại thành cần lãnh đạo đưa phong trào ngoại thành tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, làm cho ngoại thành thật sự trở thành vành đai đỏ của Thủ đô xã hội chủ nghĩa”.
Người xác định vị trí đầu tàu, gương mẫu của Hà Nội mà “cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta” nên Người mong muốn làm sao để cho Hà Nội “thành một Thủ đô bình yên tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”. Ngày mới giải phóng, Người xác định nhiệm vụ trung tâm cho Hà Nội là “giữ gìn trật tự an ninh”, là “ổn định sinh hoạt”, là “vệ sinh sạch sẽ” là “phòng bệnh”. Muốn thế mọi người dân Thủ đô phải đoàn kết, tăng năng suất công tác, phải học tập, phải giữ vững và phát triển thuần phong mỹ tục.
Sau này, trong những lời phát biểu, những bài nói chuyện tại các kỳ Hội nghị Đảng bộ Hà Nội, các đại hội đại biểu nhân dân Hà Nội..., Người rất chú ý tới vấn đề xây dựng và phát triển Thủ đô vững mạnh toàn diện, mà trước hết là phát triển Đảng: “Hà Nội cần phải củng cố và phát triển Đảng, Đoàn Thanh niên Lao động và Công đoàn. Đảng bộ Hà Nội cần phát triển thêm thành phần công nhân, nông dân, lao động trí óc và phụ nữ vào Đảng”. Người căn dặn Đảng bộ Hà Nội phải luôn “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”.
Đó cũng là một biểu hiện tư tưởng vì con người hết sức cao đẹp của Bác Hồ kính yêu.
Hà Nội hôm nay ngày càng đổi mới, phát triển để xứng đáng là trái tim của cả nước thì càng phải thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Thành phố Hà Nội phải làm thế nào để trở thành một Thủ đô xã hội chủ nghĩa. Muốn như thế thì mỗi một xí nghiệp, mỗi một đơn vị bộ đội, mỗi một trường học, mỗi một đường phố, mỗi một cơ quan và mỗi một nông thôn ở ngoại thành phải thành một pháo đài của chủ nghĩa xã hội”.
Lời dạy và cũng là mong muốn của Bác Hồ sẽ mãi mãi là động lực thôi thúc nhân dân Hà Nội sát cánh cùng cả nước xây dựng Thủ đô, xây dựng đất nước giàu mạnh trong thời đại mới.
T.S
(Biên soạn theo trang điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh)