Thủ tướng: Giữ được đất, được nước, được người mới gọi là thành công

.

Phát biểu kết luận Hội nghị về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng biến đổi khí hậu, Thủ tướng nhấn mạnh: Phải giữ được đất, giữ được nước và đặc biệt là giữ được người thì mới gọi là thành công trong việc chống chọi, thích ứng với thiên nhiên.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị.

Phát biểu kết luận sau hai ngày làm việc của Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, sau 20 giờ làm việc với gần 1.000 người tham dự, hàng trăm lãnh đạo Trung ương, địa phương, nhà khoa học, các đại biểu quốc tế, hội nghị đã ghi nhận nhiều ý kiến sâu sắc, nhất là những kinh nghiệm của thế giới về phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.

“Chính phủ lắng nghe và tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị và tiếp tục kêu gọi các sáng kiến cùng chung tay phát triển bền vững khu vực ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu”. Thủ tướng cho biết, sau hội nghị này, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết về ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Tất cả các bài phát biểu tại hội nghị sẽ được đưa vào kỷ yếu để làm tài liệu nghiên cứu.

10.000 giếng khoan thì làm sao không sụt lún

Tại Hội nghị, Thủ tướng nêu ra 4 thách thức lớn đối với ĐBSCL. Đó là biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ảnh hưởng nặng nề nhất trong 100 năm qua tại đây. Việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, trong đó có việc chuyển nước sông Mekong sang lưu vực sông khác cũng là nguy cơ lớn đối với vùng này.

Các hoạt động kinh tế cường độ cao của con người gây ra nhiều tổn thương và hệ lụy, gây ra hiện tượng sụt lún lớn với tốc độ nhanh, mức độ ngày càng nghiêm trọng, môi trường bị suy thoái do ô nhiễm nước, không khí và tàn phá rừng ngập mặn nặng nề. “Như vùng bán đảo Cà Mau có trên 10.000 giếng khoan nước ngầm phục vụ nuôi trồng thủy sản thì làm sao không gây sụt lún được?”, Thủ tướng dẫn chứng đã có 562 điểm sạt lở sông, biển trên chiều dài gần 800 km; trong đó sạt lở đặc biệt nguy hiểm tại 40 điểm trên chiều dài 130 km. Mỗi năm, chúng ta đang mất khoảng 300 ha đất, lãnh thổ với xu hướng ngày càng nghiêm trọng hơn, Thủ tướng lo lắng.

Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực cũng là một thách thức bởi Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng trũng về giáo dục đào tạo, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa và hạ tầng cơ sở chưa tương xứng với tiềm năng. Trong khi nhân lực chất lượng cao có xu hướng dịch chuyển khỏi vùng, nhất là trong bối cảnh vùng đang chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu và khoảng cách phát triển ngày càng xa với thế giới trong làn sóng Cách mạng công nghiệp 4.0.

“Các thách thức nêu trên không phải là dự báo mà hiện hữu, cần được nhận thức và xử lý một cách biện chứng, không tách rời”, Thủ tướng tổng kết và nhấn mạnh phải giữ được đất, giữ được nước và đặc biệt là giữ được người thì mới gọi là thành công trong việc chống chọi với thiên nhiên, thích ứng với thiên nhiên ĐBSCL theo tinh thần phát triển bền vững.

Từ vùng trũng giáo dục-KHCN thành thung lũng sáng tạo

Đề cập đến những tầm nhìn mới của vùng được nêu ra tại hội nghị, Thủ tướng nhấn mạnh: ĐBSCL không chỉ là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam mà phải là nền kinh tế nông nghiệp thông minh, bền vững, có giá trị gia tăng cao ở khu vực và rộng hơn là châu Á trong tương lai.

Phải xây dựng ĐBSCL từ vùng trũng trong giáo dục và khoa học công nghệ thành thung lũng của sự sáng tạo về một nền nông nghiệp đa chức năng, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp, thích ứng với môi trường nhiễm mặn, khan hiếm nước ngọt và phù sa; thay đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, phù hợp với điều kiện mới trong đó lấy phát triển bền vững và hiệu quả của sản xuất làm tiêu chí quan trọng.

Thủ tướng cũng đưa ra 3 quan điểm phát triển của khu vực ĐBSCL theo hướng: Kiến tạo phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở chủ động thích ứng, chuyển hóa được những thách thức, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định và khá giả của người dân cũng như bảo tồn được những giá trị truyền thống văn hóa của vùng. Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa, sang tư duy kinh tế nông nghiệp từ số lượng sang chất lượng, gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất nông nghiệp hóa học sang nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao; chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp.

Cùng với đó là tôn trọng quy luật tự nhiên, chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thuận thiên là chính, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, phát triển bền vững theo phương châm sống chung với lũ, với mặn, với khô hạn, thiếu nước phù hợp với điều kiện thực tế.

“Xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức thành cơ hội. Một lần nữa chúng ta nêu lại quan điểm phải chủ động sống chung với lũ, với mặn, với thiếu nước như Israel đã làm. Và chúng ta coi nước lợ, nước mặn cũng là một nguồn tài nguyên”, Thủ tướng nêu rõ.

Mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, bảo đảm tính chất liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình hợp lý, trong đó trước mắt tập trung ưu tiên các công trình cấp bách có tính chất không hối tiếc, các công trình có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển kinh tế toàn vùng, các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Phải chú trọng và chủ yếu là giải pháp phi công trình, còn tất nhiên phải làm một số công trình. Hà Lan và nhiều nước khác đều đi theo hướng đó.

Khắc phục việc thừa chồng chéo, thiếu phối hợp

Về giải pháp tổng thể, Thủ tướng nêu rõ, trước hết cần rà soát lại các quy hoạch tổng thể ngành, địa phương đã có tại ĐBSCL. Quy hoạch mới cần chuyển từ sống chung với lũ sang chủ động sống chung với lũ, sống chung với nước mặn và ngập.

Phấn đấu đến năm 2050 ĐBSCL trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến, GDP bình quân đầu người đạt gần 10.000 USD, tỉ trọng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 80%, độ che phủ rừng đạt trên 5%. Các hệ sinh thái tự nhiên, quan trọng được bảo tồn.

“Quan điểm của Chính phủ, của Đảng Cộng sản Việt Nam là phát triển để phục vụ người dân là quan trọng nhất. Và với một tinh thần giảm khoảng cách giàu nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, Thủ tướng nêu rõ.

Phát triển các loại hình du lịch miệt vườn, du lịch sông nước, du lịch sinh thái gắn với khu bảo tồn thiên nhiên đã có sẵn trong vùng.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng để nâng cao hiệu quả thực chất, thu gọn đầu mối, lấy quản lý thông minh tài nguyên nước và thích ứng với biến đổi khí hậu là trọng tâm xuyên suốt. Phải khắc phục nhanh việc quản lý nhà nước thừa chồng chéo, nhưng thiếu phối hợp, chậm ban hành một cơ chế phát triển vùng. Vừa qua đã khắc phục được vấn đề này để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả vùng.

“Chúng ta thiếu chính sách tạo nên sự liên kết chuỗi nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của các mặt hàng nông sản vùng đồng bằng. Những vấn đề gợi lên như vậy, tôi giao cho Bộ trưửng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ, nhất là cơ chế điều phối vùng sẽ được thành lập ngay sau hội nghị này”, Thủ tướng nhấn mạnh.

Giảm diện tích lúa 3 vụ, giải quyết vấn đề “vạn lý đường đê”

Giao nhiệm vụ cụ thể đối với các bộ, ngành liên quan, Thủ tướng yêu cầu, đối với lĩnh vực tài nguyên môi trường, tiếp tục cập nhật và hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng tại Việt Nam cho đến năm 2100. Kịch bản phải được công bố công khai theo định kỳ để được thường xuyên cập nhật, bổ sung các chiến lược, quy hoạch phát triển. Có chiến lược tiết kiệm nước ngọt, chung sống với hạn mặn, khai thác nước mặn như một tài nguyên mà nhiều nước đã thành công.

Đối với lĩnh vực nông nghiệp và thủy lợi, vấn đề nổi cộm chính là nguồn nước ngày càng khan hiếm, cho nên chiến lược đầu tiên là chọn cây trồng nào ít sử dụng nước và không tiếp tục gia tăng hoặc giữ diện tích trồng lúa nhiều như hiện nay. Rất cần thiết xen canh mô hình canh tác lúa-cá, lúa-tôm để giảm bớt sử dụng nước trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Chính vì vậy, quy hoạch nông nghiệp bảo đảm những vùng sản xuất lúa chất lượng cao, sử dụng ít nước, ít phát sinh phát thải khí nhà kính. Những vùng nuôi trồng thủy sản được thủy lợi hóa và những vùng rừng ngập mặn, rừng chàm vốn có. Nghiên cứu chuyển hướng chiến lược sản phẩm nông nghiệp chủ lực trước đây theo ưu tiên lúa, thủy sản, cây trồng, sắp tới nên theo cây trồng, thủy sản và lúa.

Dứt khoát giảm diện tích lúa ba vụ. Không chọn cây trồng sử dụng quá nhiều nước ngọt đắt tiền nhưng giá trị thương mại lại rất thấp. Trong quá trình chọn lựa cây con cần thiết phải có các doanh nghiệp tham gia từ đầu. Vì họ là người sau cùng đầu tư sản xuất nguyên liệu và chế biến thành các mặt hàng cung cấp ra thị trường.

Thủ tướng cho rằng, theo cách tiếp cận hiện nay thì chiều dài đê bao ĐBSCL sẽ lên trên 57.000 km. Thời gian tới, mực nước nội đồng sẽ tiếp tục gia tăng. Đất đồng bằng tiếp tục lún sụt, lũ tiếp tục tăng thêm. Mực nước biển tiếp tục dâng thêm. Vấn đề domino về đê bao tất yếu sẽ xảy ra và sẽ tiếp tục theo chiều hướng bất lợi và trong vòng luẩn quẩn không ngừng. Cần giải quyết vấn đề “vạn lý đường đê” một cách biện chứng khoa học và khôn ngoan nhất.

Đối với lĩnh vực công thương, hạn chế tối đa làm nhiệt điện than và nếu làm, không được ảnh hưởng đến môi trường.

Về lĩnh vực xây dựng, có 3 việc lớn. Một là, chương trình phát triển đô thị vùng ĐBSCL thông minh. Thứ hai là chương trình nước sạch liên vùng an toàn cho người dân. Thứ ba, xây dựng nhà ở an toàn, vệ sinh cho người dân miền Tây.

Về lĩnh vực GTVT, phải tận dụng lợi thế sông nước để phát triển các tuyến giao thông thủy thay vì đầu tư quá nhiều các dự án cao tốc đường bộ lớn mặc dù hệ thống giao thông cao tốc đường bộ quốc lộ ở ĐBSCL là cần thiết.

Về lĩnh vực giáo dục đào tạo và dạy nghề, cần phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực để biến ĐBSCL thành thung lũng của sự sáng tạo cho một nền nông nghiệp đa chức năng.

Giải ngân hiệu quả ít nhất 1 tỷ USD

Về lĩnh vực tài chính, cần nghiên cứu thành lập quỹ phát triển ĐBSCL với nhiều nguồn lực, đặc biệt là cấp ngân sách. Từ nay đến năm 2020, giải ngân có hiệu quả ít nhất là 1 tỷ USD để làm mấy việc: Làm hệ thống cống điều tiết, cống sông Cái Lớn, sông Cái Bé của tỉnh Kiên Giang để ngăn mặn, cống Trà Sư, Tha La của tỉnh An Giang để điều tiết lũ rồi một số đoạn sạt lở nghiêm trọng, trực tiếp gây ảnh hưởng đến nhà cửa của nhân dân. Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần, cái gì tư nhân có thể làm được thì chúng ta tạo điều kiện cơ chế cho tư nhân làm.

Thủ tướng yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐBSCL phục vụ thích ứng BĐKH và sinh kế bền vững. Nghiên cứu xây dựng Chương trình đồng bằng thích ứng dưới dạng một dự án tổng thể có mục tiêu dài hạn là giữ cho ĐBSCL an toàn về lâu dài và là một nơi hấp dẫn để sinh sống và làm việc, kể cả chính sách hạn điền ở khu vực này.

“Ít nhất 2 năm một lần Chính phủ sẽ mở diễn đàn ĐBSCL có quy mô lớn như hội nghị hôm nay để bàn và thảo luận, đề ra các giải pháp cụ thể để phát triển ĐBSCL, chứ không phải chúng ta đưa ra một số chủ trương, không kiểm tra, không giải quyết, không bố trí nguồn lực, không chỉ đạo thực hiện, không có cán bộ làm việc thì như người ta nói “nước đổ lá môn”, chảy tuồn tuột hết. Hằng năm phải kiểm điểm vấn đề chúng ta đã nói hiện nay xem đã làm đến đâu, sẽ làm đến đâu và phải làm gì để phát triển ĐBSCL ứng phó BDKH và phát triển bền vững”, Thủ tướng nói.

Ngay sau Hội nghị này, Thủ tướng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ khẩn trương tiếp thu, tổng hợp ý kiến của các địa phương, quý vị đại biểu, xây dựng ngay dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu để đưa ra thảo luận tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9.

“Những quyết sách, kết luận từ Hội nghị này, kể cả quy hoạch ĐBSCL như thế nào tới đây cũng công bố để người dân biết, góp ý và phản biện và chú ý lắng nghe mọi nơi mọi lúc, thông qua nhiều hình thức. Người dân có quyền giám sát đánh giá lại doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nhất là những định hướng phát triển phù hợp”, Thủ tướng nêu rõ.

Theo Chinhphu.vn

;
.
.
.
.
.