160 năm Đà Nẵng kháng Pháp (1858-2018)

Đà Nẵng trong cuộc chiến tranh Mậu Ngọ (1858 -1860)

.

Cách đây đúng 160 năm, liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ phát súng đầu tiên tấn công xâm lược nước ta tại Đà Nẵng. Sự kiện nhân dân Đà Nẵng thay mặt cả nước đương đầu với lực lượng quân đội hiện đại, với tàu to, súng lớn, tạc đạn “2 lần nổ”… đã viết nên những trang sử bi hùng của dân tộc ta.

Thông qua một số tài liệu mới được khai thác tại các trung tâm lưu trữ tại Pháp, bài viết này xin giới thiệu vài nét về việc quân dân ta chống Pháp tại Đà Nẵng lúc bấy giờ, ngõ hầu cung cấp thêm cho bạn đọc nhiều thông tin mới, rất thú vị về sự kiện này.

Kỳ 1: Chúng ta phải chiếm lấy nơi này!

Liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng 1-9-1858.
Liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng 1-9-1858.

Cuối thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây ngày càng cạnh tranh quyết liệt về việc xâm chiếm thuộc địa thì Việt Nam - nơi có vịnh Đà Nẵng là một nơi lý tưởng nhất để thực hiện ý đồ này. Theo ghi chép của những sĩ quan, binh lính Pháp thì “Đà Nẵng là một ngôi làng thơ mộng”, là điểm “khó tấn công, dễ phòng thủ nhất tại Việt Nam”.

Một lá thư của một lính Pháp tham chiến tại Đà Nẵng gửi về nhà có đoạn: “An Nam là một đất nước dễ thương gấp ngàn lần Pointe de Galles, nơi đây có một con sông (tức sông Hàn) đổ ra biển và chính con sông này tạo thành một cảng. Cái nóng ở đây rất kinh khủng, hơn nơi khác rất nhiều.

Anh đã có 2 chuyến đi săn tuyệt vời, một là đi bắn chim, hai là đi săn khỉ. Tụi anh đã đi săn đến 8 giờ tối và mỗi người có một khẩu súng, còn anh lại không có mang theo (điều này làm anh hối tiếc vô cùng), anh đã dùng súng quân dụng của thuyền trưởng và tụi anh đã xuống ca-nô đi.

Ban đêm rất yên tĩnh, nếu những người đang ngủ bị đánh thức, là bởi nghe thấy tiếng kêu của hàng ngàn con rắn, dường như đang tiến về phía tụi anh”(1).

Tuy nhiên, đối với một viên sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân đánh chiếm Đà Nẵng thì: “Cửa biển Đà Nẵng là một vịnh lớn mở ra hướng bắc, với lối vào rộng hơn 5 dặm. Bờ phía đông - được hình thành bởi một vùng đất cao của bán đảo Sơn Trà - là một vùng lòng chảo, tàu bè có thể tìm thấy ở đây chỗ cắm neo tốt, nếu không rộng lắm, thì ít ra cũng rất chắc chắn.

Cửa biển này là cửa biển gần Huế nhất, với khoảng cách 15 dặm, là nơi thả neo của các tàu hải quân Nam kỳ. Ngoài ra, đây còn là điểm bắt buộc các tàu lớn phải thả neo nếu muốn tiến vào kinh đô”. Dưới mắt đoàn quân xâm lược Pháp(2), Đà Nẵng theo cảm nhận của viên Trung úy Bichot, từng tốt nghiệp Trường Võ bị Saint Cyr khi đến Đà Nẵng vào năm 1858 là:

“Chúng tôi tới Đà Nẵng và cắm trại trên bán đảo, nơi có nhiều ngôi mộ mà chúng ta vừa ghé thăm. Lúc đó chưa có thành phố Đà Nẵng. Tại chỗ nay là thành phố, khi chúng tôi tới mới chỉ là một ngôi làng nhỏ với những túp lều tranh bị bỏ hoang. Khắp mặt vịnh và xung quanh chỉ có đất và nước, trông chẳng khác gì hoang mạc.

Chúng tôi tưởng ở đây chỉ có chúng tôi trên cõi đời, nếu không có cái đồn ở đèo Hải Vân trên cao đang giám sát và chế nhạo chúng tôi; chưa nói tới đánh nhau với nó, chỉ riêng tiếp cận nó bằng cách leo lên đã là một chuyện bất khả”.

Tuy nhiên, nếu có dịp leo lên đỉnh Sơn Trà để nhìn bao quát Đà Nẵng thì quả thực là một phong cảnh vô cùng ngoạn mục: “Ngày 20 tháng 3 (1859), tôi lên đến đỉnh cao nhất của bán đảo Sơn Trà. Đi đường thật khó nhọc, rồi cũng đến nơi. Ồ! Thật đẹp tuyệt vời! Chúng tôi đang ở trên mây, mây bao phủ cả trại lính Sơn Trà, tôi đưa mắt nhìn, ôm cả bán đảo Sơn Trà nào là các tiểu đồn, biển cả, núi Ngũ Hành Sơn, dòng sông Hàn và các đồn của đối phương.

Rừng nguyên sinh bao bọc lô cốt, đầy thú rừng đủ các loại: hổ, báo, beo, chồn đèn, tê tê, heo rừng, nai, sóc, nai xạ hương, vượn, gà rừng, sóc… Nếu cha tôi một người say mê săn bắn đến đây thì ông ta sung sướng biết dường nào!”(3).

Tàu chiến quân Pháp tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858.  (Nguồn: Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp)
Tàu chiến quân Pháp tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858. (Nguồn: Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp)

Dù người Anh hay người Pháp, dù người Bồ hay người Nga, dù thủy thủ hay nhà thám hiểm, là lái buôn hay nhà truyền giáo khi họ đặt chân đến Đà Nẵng đều dành cho thương cảng này một sự ca ngợi hết lời và nhìn thấy ở đây một vị trí quân sự, thương mại chiến lược cần phải chiếm lấy.

Ngay cả giáo sĩ Đắc Lộ, người thay Chúa “đi gieo giống Phúc âm” cũng nhiều lần khuyến cáo chính phủ Pháp: “Đây là vị trí cần phải chiếm lấy và chiếm được xứ này thì các lái buôn châu Âu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên rất dồi dào”. Vì tất cả những lẽ trên, viện cớ triều đình nhà Nguyễn cấm đạo, cấm giao thương, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã phát động một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng.

Lý giải cho việc xuất quân xâm chiếm Việt Nam vào năm 1858, người Pháp lúc đó cho rằng: “Đô đốc Rigault de Genouilly, chỉ huy trạm hải quân ở Biển  Đông, có nhiệm vụ mở một chiến dịch quân sự, đánh chiếm một cứ điểm của đất nước này, chúng ta phải sử dụng sức mạnh để sửa lại mọi lời buộc tội, chấm dứt việc cấm đoán hoạt động thương mại của ta và truy sát các nhà truyền giáo, trong đó có một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha là Linh mục Diaz-người vừa mới trở thành nạn nhân”(4). Cứ điểm họ nêu đó chính là Đà Nẵng.     

Ngày 31-8-1858, lực lượng viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha có đến 2.500 quân (trong đó có 850 quân của Tây Ban Nha do đại tá Lanzarotte chỉ huy) đi trên 14 chiếc tàu chiến thả neo tại cảng Đà Nẵng.

Tài liệu của viên sĩ quan trực tiếp chỉ huy trận đánh này cho biết: “Tàu chiến Phlégéton và Primauguet, chiến hạm Némésis, pháo thuyền Avalanche và Dragonne, thuyền chở hàng Gironde, Saône, Meurthe có nhiệm vụ bắn đạn vào 7 đồn lũy ở cửa vịnh Đà Nẵng. Các pháo thuyền Fusée, Alarme, Mitraille, tàu hơi nước El Cano, phải tiến vào trong vịnh càng sâu càng tốt và tấn công hai đồn lớn ở khu vực này”(5)...

Một hồi ký của sĩ quan Pháp cho biết: “Chúng ta nghĩ rằng, tốt nhất nên hành động bất ngờ, đánh chiếm kinh đô Huế và áp đặt các điều kiện của mình. Con  số 2.600 quân là cần và đủ cho cuộc lật đổ này. Tây Ban Nha, cũng giống chúng ta, họ đã đồng ý cung cấp một nửa số quân trong số quân đội người bản xứ ở Manille (Philippines), hơn nữa chấp thuận trả một khoản trợ cấp là 100.000 đồng/năm, như tiền bù trừ một phần chi phí trang bị cho hải quân khi cần thiết (6).

Vì vậy, trong đoàn quân viễn chinh đến Đà Nẵng còn có “một tàu của Tây Ban Nha là “Elcano”, với 500 binh lính trên tàu này, đến từ Manille (thuộc phiên chế của Tây Ban Nha) và chiến đấu bên cạnh chúng tôi”(7).

(1)  Thư của Edmond, gửi cho em gái, đề ngày 19-4-1858, File 1728-1733. Hs số :1K322 phông Grimald, Sở Lưu trữ Lịch sử Bộ Quốc phòng – Château de Vincennes.

(2) Tư liệu lịch sử do A. Benoist d’Azy nghiên cứu, về Cuộc chinh phục Nam kỳ của Pháp. Hs số: AB XIX 3970, Lưu trữ Quốc gia Pháp – Pierrefitte sur Seine.

(3) Tư liệu lịch sử do A. Benoist d’Azy nghiên cứu, về Cuộc chinh phục Nam kỳ của Pháp. Hs số: AB XIX 3970, Lưu trữ Quốc gia Pháp – Pierrefitte sur Seine.

(4) Tư liệu lịch sử do A. Benoist d’Azy nghiên cứu, về Cuộc chinh phục Nam kỳ của Pháp. Hs số: AB XIX 3970, Lưu trữ Quốc gia Pháp – Pierrefitte sur Seine.

(5) Tư liệu lịch sử do A. Benoist d’Azy nghiên cứu, về Cuộc chinh phục Nam kỳ của Pháp. Hs số: AB XIX 3970, Lưu trữ Quốc gia Pháp – Pierrefitte sur Seine.

(6) Tư liệu lịch sử do A. Benoist d’Azy nghiên cứu, về Cuộc chinh phục Nam kỳ của Pháp. Hs số: AB XIX 3970, Lưu trữ Quốc gia Pháp – Pierrefitte sur Seine.

(7) Báo cáo của viên sĩ quan chỉ huy tàu Némésis, tại vịnh Đà Nẵng, ngày 3-9-1858. Tài liệu mang ký hiệu AB XIX 3970. Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng Pháp.

LƯU ANH RÔ
...................................................................................

;
.
.
.
.
.
.